Xem các phần: (1),
(2),
(3),
(4),
(5),
(6), (7),
(8),
(9),
(10),
(11),
(12),
(13),
(14),
(15),
(16),
(17)
Nguyễn Văn Bông
CHƯƠNG III: NỀN ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA
Từ ngày những cơ cấu
căn bản của Quốc gia – chiếu theo Hiến pháp ban hành ngày 1-4-1967 được thiết
lập đến nay, vỏn vẹn có một năm. Thời gian hãy còn sớm để có thể có một cái
nhìn tổng quát kèm theo một phán đoán nào về tính chất và giá trị của định chế
chính trị Quốc gia.
Tuy nhiên người quan
sát phải nhìn nhận rằng, trong năm đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng hòa, cuộc sinh
hoạt chính trị chưa đáp ứng được kỳ vọng của quốc dân.
Nhà Lập hiến năm 1967, với một tâm trạng hoài nghi và lo
sợ: hoài nghi từ con người đến định chế, lo sợ nạn độc tài tái lập, nên đã dành
hết lòng tin tưởng vào Quốc hội tương lai với rất nhiều quyền. Và hậu quả ngày
nay là mối tương quan giữa cơ quan công quyền bị ảnh hưởng và áp lực nặng nề
của Lập pháp.
Quốc hội với những cuộc chất vấn, thảo luận liên miên
về “nội các trước hiện tình đất nước”, với những lời tuyên bố thiếu lịch sự của
các vị đại diện nhân dân chỉ chú ý đến sai lầm nhỏ nhặt, những câu chuyện cá
nhân…đã gây rất nhiều khó khăn cho Hành pháp, giảm sút uy tín của Chính phủ và
làm nản lòng những con người thiện chí.
Chính phủ mãi lúng túng trong chiến tranh và hòa bình
với những biện pháp nửa chừng theo sau thời cuộc, chưa đạt được lòng tin và gây
một xúc động tâm lí trong quần chúng. Trong lúc đó nhân dân thờ
ơ, ngơ ngác và kiên nhẫn đi tìm một đấng minh quân.
Trách nhiệm và vận
mệnh là trách nhiệm và vận mệnh chung của dân tộc. Nhưng, sáng kiến, tài ba và
thiện chí của nhà lãnh đạo luôn luôn chiếm phần quyết định. Vì hoàn cảnh phức
tạp hiện nay, tác giả cố tình không đề cập đến cuộc sinh hoạt chính trị và
trong những trang kế tiếp, chỉ phân tích và phê bình những định chế do Hiến
pháp ngày 1-4-67 thiết lập.
Mục I: LỜI MỞ ĐẦU VÀ NGUYÊN TẮC CĂN BẢN
Ngày 18-3-1967 Quốc
hội Lập hiến đã chung quyết toàn bộ bản văn Hiến pháp, Đạo luật căn bản mới này
mở màn cho nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Tân Hiến pháp – được ban hành long
trọng ngày 1-4-1967 – gồm Lời mở đầu và 117 điều khoản được phân chia ra 9
Chương như sau: Chương I: Điều khoản căn bản; Chương II:
Quyền lợi và nghĩa vụ công dân; Chương III: Lập pháp; Chương
IV: Hành pháp; Chương V: Tư pháp; Chương VI: Các
định chế đặc biệt; Chương VII: Chính đảng và đối lập; Chương
VIII: Tu chính Hiến pháp và Chương IX: Các điều khoản chuyển
tiếp.
Vẫn biết rằng có Hiến
pháp không có nghĩa là sẽ có dân chủ; nhưng Tân Hiến pháp được ban hành đánh
dấu một bước tiến đến một chính quyền hợp hiến, một chính quyền dân sự hầu
thay thế những chính phủ tạm bợ, giao thời của những năm qua.
Khái niệm Hiến pháp dựa trên 3 ý niệm:
* Sự thống nhất của một hệ thống pháp lí;
* Sự xác nhận một triết lí chính trị;
* Sự hợp thức hóa một chính quyền.
1. Hiến pháp đem lại
một trật tự. Trong đám rừng của quy tắc pháp lí, Hiến pháp ấn định một nguyên
tắc của một hệ cấp. Hiến pháp được xem là quy tắc căn bản, nguyên thủy.
Và từ quy tắc căn bản, nguyên thủy ấy, tất cả các quy tắc khác hiện hình.
2. Hiến pháp là một
văn kiện pháp lí. Chính văn kiện ấy phản ảnh hoài bão, tâm trạng, hi vọng của
con người ở một giai đoạn nhất định. Chính cái sáng tác mà chúng ta gọi là Hiến
pháp, dù muốn dù không chứa đựng một triết lí chính trị tức là một số
nguyên tắc điều hướng của một xã hội tương lai mà con người ở thế hệ
đó mong mỏi thực hiện.
3. Chính quyền là một
hiện tượng chính trị. Và sơ khởi đó là một sự kiện. Người ta có thể chiếm chánh
quyền, hành xử chính quyền qua nhiều hình thức, Hiến pháp ấn định việc tổ chức
chính quyền. Trong cái công việc ấn định tổ chức chính quyền, Hiến pháp hợp
thức hóa chính quyền, một chính quyền nào đó được khai sinh theo thể thức ấn
định sẵn và đồng thời giới hạn chính quyền trong khung
cảnh của định chế.
Đoạn 1 – LỜI MỞ ĐẦU
Trong “Lời mở đầu”, Quốc hội Lập hiến tin
tưởng rằng “Tương lai huy hoàng của đất nước” sẽ được bảo đảm bởi “lòng ái
quốc, chí quật cường và truyền thống đấu tranh của “dân tộc” và ý thức rằng
“sau bao nhiêu năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến
tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy trách nhiệm trước lịch sử, tiếp nối ý chí
quật cường, đồng thời đảm nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chính
thể Cộng hòa của Dân, do Dân và vì Dân nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống
nhất lãnh thổ, bảo đảm độc lập, tự do, dân chủ trong công bằng, bác ái cho các
thế hệ hiện tại và mai sau”.
Một lời mở đầu vắn tắt với nội dung tổng quát
như vậy không có gì đáng chú ý. Trên phương diện hoàn toàn pháp lí nó không có
một giá trị nào. Và đây là “lời mở đầu” điển hình ghi lại một số tuyên ngôn của
chân lí, một số khái niệm của luật thiên nhiên, một số nguyên tắc chỉ đạo. Tuy
nhiên, chính “Lời mở đầu” này là trọng tâm của một vài cãi vã và xáo trộn chính
trị… vì ba chữ “Đấng tối cao”. Người ta thuật lại rằng trong dự thảo Lời mở đầu
có ghi ba chữ “Đấng Tối cao”. Rồi sau khi nhận được văn thư của một Thượng tọa,
Quốc hội Lập hiến đã bãi bỏ danh từ “Đấng Tối cao”. Sự can thiệp chính thức ấy
đã gây một phản ứng: đó là cuộc biểu tình của khối Công dân Công giáo, biểu
tình trước Quốc hội và Dinh Độc lập, lên án hành động gạt “Đấng Tối cao” ra
khỏi bản Hiến pháp và cho đó là “sự nhục mạ truyền thống đạo đức của nhân dân
Việt Nam”.
Sự thật ra, có hay không ba chữ “Đấng Tối cao”
trong lời mở đầu, bản Hiến pháp không tăng phần giá trị, có hay không dân tộc
Việt Nam vẫn là một dân tộc hữu thần. Đây là một bài học để các nhà lãnh đạo
tinh thần nên thận trọng khi can thiệp vào cuộc sinh hoạt chính trị quốc gia.
Đoạn 2 – NHỮNG NGUYÊN
TẮC CĂN BẢN
A. Nguyên tắc dân chủ
tự do
Sau bao thăng trầm của
lịch sử, những biến cố dồn dập, nhất là trước sự thử thách của chủ nghĩa cộng
sản, ý tưởng chỉ đạo cho nhà lập hiến năm 1967 trong công cuộc đặt nền tảng cho
một trật tự mới phải là xây dựng một nền dân chủ tự do.
Nguyên tắc dân chủ tự
do tiềm tàng trong bản Hiến pháp. Ví dụ điều 3 nêu lên nguyên tắc phân nhiệm
phân quyền giữa ba cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp, và ấn định rằng “sự
hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện
trật tự xã hội và thịnh vượng dựa trên căn bản tự do, dân chủ”.
Trọn một Chương II của bản Hiến pháp công nhận
một số quyền tự do căn bản của công dân như tự do tín ngưỡng, tự do truyền giáo
và hành đạo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, tự do hội
họp và lập hội, tự do nghiệp đoàn, và nhất là quyền an toàn cá nhân và biện hộ.
Riêng về điểm chót này, Quốc hội Lập hiến không ngần ngại đi sâu vào chi tiết
hầu thực hiện nhân phẩm và tự do cá nhân.
Trên bình diện tổng
quát, nếu chúng ta nhìn lại cuộc sinh hoạt chính trị trong một số quốc gia dân
chủ tự do, chúng ta thấy rằng sự tự do của công dân được bảo vệ nhờ 2 yếu tố: quyền
đối lập và quyền tư hữu và tự do kinh doanh. Trong Hiến pháp Việt Nam Cộng
hòa, điều 13 dự liệu rằng “quốc gia tôn trọng các quyền chính trị của mọi công
dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp
pháp” và Chương VII không những công nhận mà còn đi đến việc định chế hóa đối
lập. Quyền tư bản và tự do kinh doanh được đề cập đến ở hai điều 19 và 20 của
Hiến pháp.
Qua một số điều khoản
vừa viện dẫn, chúng ta có thể khẳng định rằng nguyên tắc thứ nhất được áp dụng
là nguyên tắc dân chủ tự do. Và để nhấn mạnh quyết tâm xây dựng một xã hội dân
chủ tự do, nhà lập hiến 1967 đã biểu lộ 2 xu hướng: đó là tính cách thế
tục của quốc gia và tinh thần chống cộng. Nói đến tính cách thế tục tức là
xác định rằng quốc gia và luật pháp ngày nay được xem là những hiện tượng riêng
biệt, tách rời tôn giáo. Trong chiều hướng ấy, điều 9 khoản 2: “Quốc gia không
thừa nhận một tôn giáo nào là quốc giáo. Quốc gia vô tư đối với sự phát triển
của các tôn giáo”. Và tinh thần chống cộng được thể hiện qua điều 4: “Việt Nam
Cộng hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức. Mọi hành vi nhằm mục
đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ”.
B. Nguyên tắc công
bằng xã hội
Đây là nguyên tắc điều hướng thứ hai được nêu
ra ngay trong điều 3 của Hiến pháp. Và để thực hiện nguyên tắc chính yếu này,
nhà lập hiến chủ trương:
·
Quốc gia nỗ lực tạo công
việc làm cho mọi công dân;
·
Quốc gia nỗ lực thiết
lập chế độ an ninh xã hội.
“Chế độ cứu trợ xã hội và y tế công cộng và
nâng đỡ đời sống tinh thần và vật chất của các chiến sĩ quốc gia, bảo trợ và
dưỡng dục các quốc gia nghĩa tử.” (điều 18)
Đi xa hơn nữa, vấn đề “đặc biệt nâng đỡ những
thành phần xã hội yếu kém về kinh tế” và “nâng cao đời sống nông dân và đặc
biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác” cũng được lưu ý đến. Ngoài ra,
công nhân có quyền cử đại biểu tham gia quản trị xí nghiệp đặc biệt về những
vấn đề liên quan đến lương bổng và điều kiện làm việc.” (điều 20)
Mục II: QUYỀN LẬP PHÁP
Đoạn 1: QUỐC HỘI: CƠ QUAN LẬP PHÁP
Theo điều 30, quyền lập pháp được quốc dân ủy
nhiệm cho Quốc hội. Quốc hội gồm hai Viện: Hạ Nghị viện và Thượng Nghị viện.
A. Thành phần
Hạ Nghị viện gồm 137 dân biểu, được bầu theo lối phổ thông
đầu phiếu trực tiếp và kín, theo thể thức đơn danh, trong từng đơn vị lớn nhất
là tỉnh. Nhiệm kì của dân biểu là 4 năm và dân biểu có thể được tái cử. Muốn
ứng cử, dân biểu phải hội những điều kiện sau đây:
·
Có Việt tịch từ khi mới
sanh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất 7 năm, hoặc thủ đắc hoặc hồi phục Việt
tịch ít nhất 5 năm tính đến ngày bầu cử;
·
Đủ 25 tuổi;
·
Được hưởng các quyền
công dân;
·
Ở trong tình trạng hợp
lệ quân dịch;
·
Hội đủ các điều kiện
khác dự liệu trong đạo luật bầu cử dân biểu.
Thượng Nghị viện gồm có 60 nghị sĩ do cử tri toàn quốc bầu
trong một cuộc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức liên danh đa
số. Nhiệm kì của nghị sĩ là 6 năm nhưng mỗi 3 năm phải bầu lại phân nửa. Nghị
sĩ có thể được tái cử. Muốn ứng cử nghị sĩ, công dân phải đủ 30 tuổi, được
hưởng ứng các quyền công dân, ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch và các điều
kiện dự liệu trong đạo luật bầu cử nghị sĩ.
B. Quy chế dân biểu và
nghị sĩ
Dân biểu và nghị sĩ hưởng các quyền đặc miễn
thông thường nhưng đồng thời cũng bị ràng buộc bởi những bất khả kiêm nhiệm.
Điều 37 khoản 1 công
nhận sự vô trách nhiệm của dân biểu và nghị sĩ về những sự
phát biểu và biểu quyết tại Quốc hội. Song song với nguyên tắc vô trách nhiệm,
dân biểu và nghị sĩ còn có đặc quyền bất khả xâm phạm.
“Trong suốt thời pháp nhiệm, ngoại trừ trường
hợp quả tang phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một dân
biểu hay nghị sĩ nếu không có sự chấp thuận của ¾ tổng số dân biểu hay nghị
sĩ.” (Điều 37 khoản 1)
Hiến pháp đã quy định
“trong suốt thời gian pháp nhiệm” tức là trong suốt nhiệm kì của dân biểu hay
nghị sĩ, dù rằng hành vi phạm pháp xẩy ra trong hay giữa những khóa họp.
Quyền bất khả xâm phạm chỉ bị bãi bỏ hoặc trong trường hợp quả tang phạm pháp
hoặc khi có sự chấp thuận của ¾ tổng số dân biểu hay nghị sĩ. Và dù cho trong
trường hợp quả tang phạm pháp, sự truy tố hay bắt giam cũng phải được đình chỉ
nếu có sự yêu cầu của viện sở quan.
Những quyền đặc miễn vừa kể, được xem là thông
thường trong các chế độ dân chủ nhằm bảo vệ sự độc lập của các vị đại diện nhân
dân.
Cũng trong chiều hướng ấy, dân biểu và nghị sĩ
bị ràng buộc bởi một số bất khả kiêm nhiệm. Điều 37 khoản 5 quy định rằng “dân
biểu và nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác”
ngoài việc giảng huấn tại các trường đại học và cao đẳng kĩ thuật.
Việc áp dụng Điều 37
khoản 5 vừa kể đã đưa đến một cuộc tranh luận pháp lí nhân vệc tham chính của
nghị sĩ Trần Chánh Thành. Vấn đề tổng quát là sự tham chính của dân biểu hay
nghị sĩ, hoặc sự giao phó một nhiệm vụ đặc biệt cho một dân biểu hay nghị sĩ có
trái với Điều 37 khoản 5 của Hiến pháp không? Tất cả vấn đề kiêm nhiệm
và đặc nhiệm của dân biểu và nghị sĩ được đặt ra. Để thấu hiểu vấn đề,
thiết tưởng cần phải phân tích rõ tinh thần của Điều 37 khoản 5 và ý chí của
nhà lập hiến.
Điều 37 khoản 5 nguyên văn như sau: “Dân biểu
và nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác” là kết
tinh của một cuộc thảo luận sôi nổi, hào hứng có lúc lại lạt lẽo trong 3 phiên
họp ngày 3-2-1967, 14-2-1967 và 17-3-1967.
1. Cuộc thảo luận đầu tiên về vấn đề này được
thực hiện vào phiên họp ngày 3-2-1967 gồm 72 dân biểu hiện diện và 45 vắng mặt,
3 ý kiến được đưa ra biểu quyết:
* Ý kiến của
ban thảo hiến: “Dân biểu hay nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một nhiệm vụ dân
cử hay công cử nào khác. Tuy nhiên dân biểu hay nghị sĩ có thể đặc
nhiệm những công vụ liên tục, không quá 6 tháng. Trong mọi trường hợp,
tổng số thời gian đặc nhiệm công vụ không quá một năm. Trong suốt thời gian đặc
nhiệm nói trên, dân biểu, nghị sĩ không có quyền thảo luận và biểu quyết tại
Quốc hội.”
* Ý kiến của
một số dân biểu kiêm nghị viên Hội đồng tỉnh hay đô thành: “Dân biểu hay
nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một nhiệm vụ dân cử hay công cử nào khác ngoại các
chức vụ Nghị viện hội đồng xã, hội đồng tỉnh hoặc hội đồng đô thành. Tuy nhiên
dân biểu hay nghị sĩ có thể đặc nhiệm những công vụ liên tục không quá 6 tháng.
Trong mọi trường hợp, tổng số thời gian đặc nhiệm không quá 1 năm.”
* Ý kiến thứ
ba dứt khoát: “Dân biểu hay nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một nhiệm vụ dân
cử hay công cử nào khác.”
Biểu quyết trong vòng 1:
·
Ý kiến thứ nhất được: 25
thăm thuận;
·
Ý kiến thứ nhì được:
12;
-
·
Ý kiến thứ ba được:
16.
-
Vì cả ba không đủ túc số, nên sau khi thảo
luận lại, Quốc hội đã biểu quyết vòng nhì, hai ý kiến nhiều thăm nhất ở vòng 1,
kết quả như sau:
·
Ý kiến thứ nhất (đặc
nhiệm) 23 thăm;
·
Ý kiến thứ ba (không
được đặc nhiệm) 26 thăm.
Vì không ý kiến nào đủ túc số, vấn đề được
hoãn lại.
2. Trong phiên họp thứ hai ngày 14-2-1967, ủy
ban thảo hiến đã phân tách ý kiến trong khoản 5 thành 2 khoản vì có hai ý niệm
khác nhau: một ý niệm bất khả kiêm nhiệm, một ý niệm khác là ý niệm đặc nhiệm.
* Điều 37/5: “Dân biểu hay nghị sĩ không thể kiêm nhiệm
một chức vụ công cử hay dân cử nào khác.”
* Điều 37/6: “Tuy nhiên, dân biểu hay nghị sĩ có thể đặc
nhiệm những công vụ liên tục không quá 6 tháng. Trong mọi trường hợp…”
Khoản 5 đã được Quốc hội biểu quyết thông qua
dễ dàng ngay từ vòng 1 (không thấy ghi số thăm thuận). Đến khoản 6 hai ý kiến
được nêu ra biểu quyết.
·
Ý kiến cho đặc nhiệm của
ủy ban thảo hiến: 36 thăm thuận;
·
Ý kiến bỏ hẳn khoản này:
23 thăm;
Không đủ túc số nên được biểu quyết vòng nhì,
kết quả:
·
Ý kiến thuận cho đặc
nhiệm: 34 thăm;
·
Ý kiến hủy bỏ khoản 6:
29 thăm.
Ông Chủ tịch đề nghị gác lại vấn đề, chờ cho
đông đủ hơn sẽ biểu quyết.
3. Rồi tiếp tục Quốc
hội bàn đến các điều khoản kế tiếp. Cho mãi đến khi chung quyết toàn bộ Hiến
pháp, vấn đề kiêm nhiệm và đặc nhiệm mới lại được nêu lên trong phiên họp ngày
17-3-68. Chính ông Chủ tịch ủy ban thảo hiến lại rút ý kiến do ủy ban
mình chủ xướng từ trước, nguyên văn như sau:
“Để công việc của Quốc
hội mau chóng hơn và có sự tham gia của tất cả đồng viện, chúng tôi xin trình
với Quốc hội là chúng ta không nên chấp thuận bất cứ một sự kiêm nhiệm, một
sự đặc nhiệm nào kể cả sự đặc nhiệm bên Hành pháp, vì kinh nghiệm cho biết là
đồng viện của chúng ta hiện nay được đặc nhiệm một chức vụ Bộ trưởng bên hành
pháp, mấy ngày đầu còn đi họp đều nhưng sau quá bận không thể cùng tham dự công
việc với chúng ta được, vì vậy chúng tôi xin đề nghị vẫn giữ nguyên tắc là các
dân biểu hay nghị sĩ không thể kiêm nhiệm một vụ công cử hay dân cử nào khác và
khoản sau chúng ta bỏ luôn, nghĩa là không nói gì nữa”[1] Không có vị nào phát biểu thêm ý kiến, Chủ tịch đề nghị
biểu quyết, 61 thăm thuận.
Điều 37 khoản năm được thông qua, nguyên văn
như trên.
Tinh thần của điều 37,
ý chí của nhà lập hiến, không thể rõ ràng hơn nữa, là bác bỏ kiêm nhiệm và đặc
nhiệm. Bởi thế những điều khoản 277 của nội quy Hạ Nghị viện và 174 của nội quy
Thượng Nghị viện hoàn toàn bất hợp hiến.[2]
C. Tổ chức nội bộ
1. Văn phòng
Văn phòng có một tầm quan trọng đặc biệt vì đó
là cơ quan đầu não của cuộc sinh hoạt nghị trường. Văn phòng Hạ Nghị viện gồm
một Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch, một Tổng thư kí, ba Phó Tổng thư kí và hai Hội
Kế viên. Văn phòng Thượng Nghị viện chỉ gồm có một Chủ tịch và hai Phó Chủ
tịch. Nhiệm kì của văn phòng là 12 tháng.
Các Chủ tịch đại diện các Viện sở quan trong
những buổi lễ chính thức, triệu tập và chủ tọa các phiên họp, thi hành nội quy
về các quyết định của Viện, đồng thời quản trị tổng quát các cơ quan chuyên
môn, hành chính, tài chính và an ninh của Viện.
Chiếu theo Điều 50 của
Hiến pháp, Chủ tịch Thượng Nghị viện triệu tập và chủ tọa các phiên họp khoáng
đại lưỡng viện và trong trường hợp Chủ tịch Thượng Nghị viện bị ngăn
trở, Chủ tịch Hạ Nghị viện thay thế.
Các Phó Chủ tịch phụ tác Chủ tịch trong nhiệm
vụ điều khiển các phiên họp và thực hiện những công tác do Chủ tịch giao phó.
Tổng thư kí của Hạ Nghị viện điều khiển việc
ghi chép nhật kí của Viện, nhật kí mật và nhật kí lập pháp, lập biên bản các
phiên họp, phụ trách việc phân phối công văn, hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan
thuộc Viện.
Các Hội Kế viên có nhiệm vụ phụ tá Chủ tịch
trong việc điều khiển và kiểm soát các cơ quan tài chính thuộc Viện.
2. Các ủy ban
Vai trò các ủy ban của Quốc hội rất quan trọng.
Thật vậy bất cứ một dự luật nào đều phải qua các ủy ban cứu xét và biểu quyết
trước khi đưa ra phiên họp khoáng đại để thảo luận.
Có bốn loại ủy ban: ủy ban đặc biệt, ủy ban thường trực, liên ủy
ban và ủy ban lưỡng viện đặc biệt.
* Các ủy ban đặc biệt
Theo điều 125 Nội quy Hạ viện và điều 55 Nội
quy Thượng viện, các ủy ban đặc biệt chỉ được thành lập khi xét cần để phụ
trách những công việc nhất định.
Thành phần, thẩm quyền và thời gian hoạt động
sẽ được ấn định riêng trong từng trường hợp.
Thí dụ: Ủy ban đặc biệt về động viên từng phần
(21-12-67)
* Các ủy ban thường trực
Hạ viện có 16 ủy ban thường trực (điều 90 Nội
quy) và Thượng viện có 12 (điều 30 Nội quy) trong đó có 11 ủy ban có tầm hoạt
động giống nhau.
Riêng Thượng viện có Ủy ban Nội viện Nội quy phụ
trách các vấn đề tổ chức, hành chính, ngân sách, nhân viên, văn khố thư viện,
quy chế nghị sĩ và áp dụng, giải thích cùng tu chính nội quy, ủy ban này gồm có
4 ủy viên và Hạ viện có 5 ủy ban mà Thượng viện không có:
·
Ủy ban bài trừ tham
nhũng;
·
Ủy ban Miên vụ;
·
Ủy ban phát triển các
sắc tộc;
·
Ủy ban Thông tin và
Chiêu hồi;
·
Ủy ban Xây dựng Nông
thôn.
Còn 11 ủy ban khác của Hạ viện và Thượng viện
gồm các địa hạt canh nông, giao thông công chánh, kinh tế, lao động, xã hội,
ngân sách tài chính, ngoại giao, nội vụ, quốc phòng, tư pháp, văn hóa giáo dục,
thanh niên và y tế.
* Liên ủy ban: được thành lập khi có một dự
luật liên quan đến lãnh vực của nhiều ủy ban.
Thí dụ: Liên ủy ban Kinh tế Tài chính
(12-2-68)
* Ủy ban lưỡng Viện đặc biệt có mục đích để
điền giải giữa hai viện (điều 237 Nội quy Thượng viện) hoặc để giải quyết những
vấn đề quan trọng liên quan đến nhiều ủy ban của hai Viện (đ.230 Nội quy Hạ
viện).
Ủy ban Lưỡng viện này được thành lập trong
trường hợp Thượng viện biểu quyết tu chính một vài điều khoản của dự án (luật
hoặc hoàn toàn bất đồng với quan điểm của Hạ viện).
Thành phần các ủy ban: có 2 điểm đặc biệt.
·
Số ủy viên mỗi ủy ban
rất khác nhau;
·
Và vai trò chủ yếu của
các nhóm chính trị trong việc đề cử ủy viên.
Ở Hạ viện, số ủy viên trong các ủy ban thường
trực ít nhất là 9 người đến 11, 15, 17 và nhiều nhất là ở hai ủy ban Ngân sách
và Tài chính và ủy ban Quốc phòng có tới 25 ủy viên.
1) Các ủy ban thường vụ của Thượng Nghị viện
gồm từ 4 đến 9 ủy ban trừ ủy ban Ngân sách Tài chính thuế khóa có thể có đến 15
ủy ban.
Riêng thành phần các ủy ban đặc biệt, cũng như
các liên ủy ban và ủy ban đặc biệt lưỡng viện ở Hạ và Thượng Nghị viện được ấn
định từng trường hợp.
2) Thủ tục đề cử các ủy viên:
Các ủy viên của ủy ban thường do các khối
chính trị đề cử mỗi năm một lần vào đầu khóa họp thường lệ của tháng mười.
Thể thức đề cử là theo đại diện tỉ lệ. Các dân
biểu độc lập – nghĩa là không thuộc khối nào – cũng phải họp lại để đề cử người
vào ủy ban theo đại diện tỉ lệ.
Vai trò của các khối chính trị lu mờ hơn trong
việc lựa chọn ủy viên các ủy ban lưỡng viện đặc biệt và các liên ủy ban.
Thật vậy thành phần các liên ủy ban do các ủy
ban liên hệ đến nội vụ, đề cử giải quyết vấn đề. Các Liên Ủy ban do Chủ tịch
Viện triệu tập và chủ tọa các buổi họp.
Hoạt động các Ủy ban
Quốc hội
Việc đầu tiên khi Ủy ban được thành lập là bầu
Văn phòng Ủy ban.
Văn phòng các Ủy ban gồm một Chủ tịch, một Phó
Chủ tịch do Viện bầu theo lối bỏ phiếu kín, đơn danh và đa số tương đối, thư kí
cùng một hay nhiều thuyết trình viên thì do Ủy ban bầu ra.
Các Ủy ban có thể chia thành Tiểu ban để phân
công và các trưởng Tiểu ban sẽ do Ủy ban đề cử.
Ủy ban họp trong thời gian các khóa họp do sự
triệu tập của Chủ tịch Ủy ban và thường họp vào buổi chiều và ngoài các buổi
họp của Viện.
Ngoài ra Ủy ban họp hợp lệ khi hội đủ quá bán
tổng số ủy viên và quyết định với đa số quá bán.
Chủ Tịch Ủy ban có quyền mời các nhân viên
Chính phủ hoặc đại diện các đoàn thể nhân dân có tư cách pháp nhân tới Ủy ban
để tham khảo ý kiến. Thí dụ: Ủy ban Quốc phòng Hạ Viện đã mời Tổng trưởng Quốc
phòng đến trước Ủy ban giải thích thắc mắc của dân biểu về chánh sách động viên
của chính phủ nhân khi bàn về Luật Tổng động viên của Hành pháp đưa ra.
Khi một dự luật, do dân biểu hay do Hành pháp
đệ nạp tại văn phòng Hạ viện, thủ tục làm việc của các ủy ban được ấn định như
sau (theo điều 178 Nội quy):
Chủ tịch Hạ viện chuyển dự luật này cho Chủ
tịch Ủy ban liên hệ cùng các tài liệu hồ sơ đính kèm trừ trường hợp một dự luật
liên hệ đến nhiều Ủy ban, Chủ tịch Viện phải triệu tập Hội đồng Thẩm quyền để
thành lập Liên Ủy ban.
Một khi dự luật đến tay Chủ tịch Ủy ban, ông
này sẽ triệu tập Ủy ban để trước nhất là xác định thẩm quyền của Ủy ban rồi mới
xét đến tính cách hợp lệ của dự luật.
Trong trường hợp, dự luật bất hợp lệ, Ủy ban
sẽ chuyển qua Chủ tịch Hạ viện để trả lại tác giả điều chỉnh.
Sau hết Ủy ban thảo luận, tu chính và biểu
quyết từng điều khoản của dự luật.
Ủy ban có một thời hạn là 1 tháng, và Hội đồng
nghị trình có thể gia hạn thêm 1 tháng nữa, để cứu xét dự luật.
Riêng Ủy ban Ngân sách và Tài chính phải cứu
xét dự thảo ngân sách trong thời hạn tối đa không quá một tháng. Các Ủy ban
khác phải cử đại diện đến dự các phiên họp của Ủy ban Ngân sách và Tài chính
khi thảo luận về dự thảo Ngân sách nhưng không được biểu quyết.
Các biên bản về những phiên họp của Ủy ban sẽ
được lưu trữ ở Văn khố Viện.
Khi cứu xét xong một dự luật, Chủ tịch Ủy ban
chuyển lên Chủ tịch Viện bản phúc trình kèm theo biên bản thảo luận với kết
luận đề nghị hoặc chấp thuận bản văn dự thảo luật hoặc bác bỏ hoặc hoãn cuộc
thảo luận trong một thời gian có hạn định.
Dự luật này sẽ được ghi vào nghị trình theo
thứ tự thời gian trừ trường hợp khẩn cấp.
Chúng ta có thể có một ý niệm về hoạt động của
các Ủy ban Quốc hội bằng những con số sau đây:
Từ tháng 11-67 đến tháng 11-68 các Ủy ban và
Liên Ủy ban của Hạ viện đã họp 367 lần, Hạ viện đã biểu quyết và chuyển đến
Thượng viện 22 dự luật và sau đó 9 đạo luật đã được ban hành trong đó có:
·
Luật số 003/68 về Tổng
động viên;
·
Luật số 007/68 về Tối
cao Pháp viện
·
Luật số 009/68 về Giám
sát Viện.
Các Ủy ban thường vụ của Thượng viện cũng hoạt
động mạnh, như Ủy ban Quốc phòng đã họp hơn 30 phiên.
·
Ủy ban Nội vụ 17 phiên;
·
Ủy ban Văn hóa và Giáo
dục 15 phiên;
·
Ủy ban Canh nông 14
phiên…
và tiếp xúc với các nhân viên Hành pháp để tìm
hiểu chi tiết các vấn đề liên quan đến Ủy ban. Để thích ứng với hoàn cảnh
Thượng viện đã thành lập ngày 6-6-1968 một Ủy ban đặc trách nhân dân tự vệ để
hỗ trợ Hành pháp hầu thúc đẩy phát động và tổ chức phong trào này.
Tóm lại, các Ủy ban của Quốc hội theo như bản
chất và hoạt động của chúng chỉ là những dụng cụ có mục đích sửa soạn công
việc. Thật vậy người ta giao cho một nhóm dân biểu có chút ít chuyên môn để
thảo luận cứu xét một vấn đề trước khi đem ra thảo luận và biểu quyết tại phiên
họp khoáng đại.
3. Các khối
Chiểu theo Nội quy của hai viện, các dân biểu
và nghị sĩ tùy theo khuynh hướng chính trị, có thể kết hợp thành khối. Sự gia
nhập vào khối hoàn toàn tự do. Dân biểu hoặc nghị sĩ không gia nhập khối nào
được xem là độc lập và tất cả các dân biểu hay nghị sĩ độc lập họp lại thành
khối hay nhóm dân biểu hoặc nghị sĩ độc lập.
Khối được xem là chính thức thành lập khi
trưởng khối hoặc đại diện nạp tại văn phòng Viện biên bản bầu cử ban chấp hành
khối cùng danh sách khối viên.
Mỗi dân biểu hay nghị sĩ chỉ được quyền gia
nhập một khối. Mọi sự thay đổi về nhân số, thành phần ban chấp hành, nội quy
hoặc điều lệ của khối phải được trưởng khối thông báo cho văn phòng Viện.
Sự thành lập khối, ngoài tác dụng kết nạp đồng
viện cùng theo một xu hướng chính trị hầu tranh đấu hữu hiệu tại nghị trường,
còn đem lại nhiều quyền lợi sau đây:
·
Trưởng khối được xếp
ngang hàng Chủ tịch Ủy ban về phương diện nghi lễ;
·
Trưởng khối có quyền yêu
cầu Chủ tọa ngưng họp 15 phút;
·
Trưởng khối là hội viên
của Hội đồng Nghị trình (tại Hạ Nghị viện);
·
Các khối cử nhân viên
vào các Ủy ban theo đại diện tỉ lệ;
·
Mỗi khối được cung cấp
phòng họp, nhân viên và phương tiện cần thiết.
Hiện nay, tại Hạ Nghị
viện có 5 khối: Khối Dân chủ, Khối Dân tiến, Khối Dân tộc, Khối Độc lập
và Khối Thống nhất, tại Thượng Nghị viện chỉ cóKhối Dân chủ Vã hội và
một Nhóm nghị sĩ độc lập.
D. Các khóa họp và các
phiên họp
Hiến pháp quy định rằng mỗi Viện họp những
khóa họp thường lệ và bất thường.
1. Khóa họp thường
lệ và bất thường
Hằng năm, mỗi Viện họp hai khóa thường lệ:
Khóa thứ nhất bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng 4 dương lịch. Khóa thứ
hai bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng 10 dương lịch. Mỗi khóa họp
thường lệ không lâu quá 90 ngày. Tuy nhiên Hạ Nghị viện có thể triển hạn khóa
họp để chung quyết dự thảo ngân sách.
Ngoài hai khóa họp thường lệ, mỗi Viện có thể
họp những khóa bất thường nếu tình thế đòi hỏi. Vấn đề đặt ra là ai có quyền
yêu cầu khóa họp bất thường và thời gian khóa họp bất thường có thể kéo dài bao
lâu.
Điều 47 quy định rằng khi có sự yêu cầu của
Tổng thống hoặc một phần ba (1/3) tổng số dân biểu hay nghị sĩ, mỗi Viện có thể
triệu tập khóa họp bất thường. Về thời gian khóa họp bất thường, Hiến pháp cũng
như nội quy hai Viện không có đề cập đến. Lẽ dĩ nhiên sau khi thảo luận và
thông qua hết nghị trình, Chủ tịch mỗi Viện sẽ bế mạc khóa họp. Tuy nhiên,
trong trường hợp chính dân biểu hoặc nghị sĩ yêu cầu khóa họp bất thường, Nghị
trình có thể là một nghị trình không hạn chế và cuộc thảo luận có thể kéo dài.
2. Phiên họp
“Quốc hội họp công
khai trừ khi quá bán tổng số dân biểu nghị sĩ hiện diện yêu cầu họp kín. Trong
các phiên họp công khai, biên bản tường thuật toàn vẹn cuộc thảo luận và các
tài liệu trình bày tại Quốc hội sẽ được đăng trên Công báo.” (Điều 48
Hiến pháp)
Khi nói đến phiên
họp của Hạ Nghị viện hay Thượng Nghị viện, chúng ta nên lưu ý rằng: đó
là phiên họp khoáng đại, phiên họp mà tất cả các dân biểu hay nghị
sĩ, Thủ tướng và các nhân viên chính phủ có thể tham dự để trình bày và giải
thích về các vấn đề liên quan đến chính sách quốc gia và sự thi hành chính sách
quốc gia.
Đặc điểm của phiên họp
khoáng đại là công khai. Ngoài việc đại diện báo chí và một số quan
khách có thể tham dự các phiên họp, tính cách công khai còn được thể hiện bởi sự
kiện là các biên bản tường thuật toàn vẹn cuộc thảo luận và các tài liệu trình
bày tại Quốc hội sẽ được đăng trên Công báo.
Theo điều 48 Hiến
pháp, nguyên tắc phiên họp công khai có thể bãi bỏ khi quá bán tổng số
dân biểu hay nghị sĩ hiện diện yêu cầu họp kín. Về điểm này, nội quy của
hai Viện ghi thêm vài điều kiện và chi tiết quan trọng. Điều 139 Nội quy Hạ
Nghị viện cho phép Hội đồng nghị trình quyền quyết định Hạ Nghị viện họp kín.
Điều 3 Nội quy Thượng viện giải thích thêm rằng “quá bán nghị sĩ hiện diện biểu
quyết họp kín theo đề nghị của Chủ tịch Thượng Nghị viện hoặc Chủ tịch Ủy ban
liên hệ, hoặc ít nhất năm nghị sĩ hay là theo đề nghị của Tổng thống”.
3. Diễn tiến
các phiên họp
Hạ Nghị viện họp hợp lệ, nếu có sự hiện diện
của quá bán tổng số dân biểu lúc khai mạc. Nếu không đủ túc số, viện sẽ họp 24
giờ sau, bất luận số dân biểu hiện diện là bao nhiêu.
Phiên họp tại Hạ Nghị viện có thể diễn tiến
như sau:
·
Kiểm điểm (đọc tên dân
biểu vắng mặt);
·
Đọc thông điệp của Tổng
thống, nếu có;
·
Thông báo kiến nghị, nếu
có;
·
Giới thiệu các dự luật
Viện mới nhận được;
·
Thông qua nghị trình;
·
Thảo luận các vấn đề đã
được ghi vào nghị trình.
Vấn đề chương trình
nghị sự là vấn đề then chốt trong một phiên họp. Việc ấn định nghị trình được
giao phó cho một Hội đồng nghị trình gồm có Chủ tịch viện, Phó
Chủ Tịch viện, các Chủ tịch Ủy ban thường trực, các Trưởng khối và Tổng Thư kí
viện.
Hội đồng nghị trình thảo luận để ghi vào nghị
trình các phúc trình của các Ủy ban và các vấn đề do Tổng thống hoặc Thủ tướng
yêu cầu. Tuy nhiên một vấn đề được 1/3 tổng số dân biểu kí tên yêu cầu thảo
luận phải được ghi vào chương trình nghị sự chậm nhất một tuần sau khi đệ nạp
tại văn phòng. Sau khi thông qua nghị trình, cuộc thảo luận bắt đầu. Nội quy ấn
định một số điều kiện liên hệ đến việc phát biểu ý kiến của dân biểu, và trao
một số quyền đặc biệt cho Chủ tọa hầu đảm bảo cho việc thảo luận được hữu hiệu.
Dân biểu phát biểu ý kiến theo thứ tự ghi tên trước, chỉ được phát biểu tối đa
3 lần về một vấn đề và mỗi lần không quá 10 phút, không được nói ra ngoài đề và
công kích cá nhân. Nếu không ghi tên trước, trong khi thảo luận dân biểu muốn
phát biểu ý kiến phải giơ tay và sau khi có lời mời Chủ tọa, chỉ được phép phát
biểu trong 5 phút.
Việc hạn chế này không áp dụng cho Chủ tịch Ủy
ban, Thuyết trình viên và tác giả đề án. Các vị này có thể lên diễn đàn bất cứ
lúc nào và thời gian phát biểu không hạn chế.
Trong khi thảo luận, chủ tọa điều khiển phiên
họp có thể cho phép diễn giả nói thêm 2 phút để làm sáng tỏ vấn đề, nhắc và nếu
cần cảnh cáo và mời về chỗ vị dân biểu nào nói ra ngoài đề, bất cứ lúc nào cũng
có thể tuyên bố tạm ngưng buổi họp.
Biểu quyết
Việc thảo luận thường được đúc kết bằng một
cuộc biểu quyết. Có 4 thể thức biểu quyết:
·
Giơ
tay: đây là một thể thức
thông thường.
·
Đứng
dậy: thể thức này được áp
dụng trong trường hợp có sự nghi ngờ về việc kiểm phiếu biểu quyết giơ tay và
nếu có sự yêu cầu của một Trưởng khối.
·
Minh
danh: khi có 1/3 dân biểu
hiện diện yêu cầu, Chủ tọa cho xướng danh các dân biểu theo thứ tự mẫu tự và
ghi biểu quyết của từng dân biểu. Dân biểu phải biểu quyết hoặc chấp thuận,
hoặc không chấp thuận, hoặc không ý kiến.
·
Phiếu
kín: Khi có quá bán dân
biểu hiện diện yêu cầu. Dân biểu được xướng danh, đích thân đến một bàn giấy,
viết biểu quyết của mình trên lá phiếu, bỏ phiếu vào phong bì và bỏ phong bì
vào thùng phiếu.
Thể thức biểu quyết ủy
nhiệm thơ không được chấp thuận.
Hạ Nghị viện biểu quyết với đa số tương đối.
Trong mọi trường hợp sự biểu quyết của Viện chỉ có giá trị nếu hội đủ 1/3 tổng
số dân biểu.
Đoạn 2: THẨM QUYỀN QUỐC HỘI
Theo điều 39 Hiến pháp, Quốc hội có thẩm
quyền:
1. Biểu quyết các đạo luật;
2. Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc
tế;
3. Quyết định việc tuyên chiến và nghị hòa;
4. Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến
tranh;
5. Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành
chính sách quốc gia;
6. Trong phạm vi mỗi Viện,
quyết định hợp thức hóa sự đắc cử của các dân biểu hay nghị sĩ.
Danh sách thẩm quyền trên đây không có tính
cách giới hạn. Vì chúng ta còn thấy thẩm quyền của Quốc hội rải rác ở những điều
khoản khác của bản Hiến pháp. Để có một ý niệm tổng quát, chúng ta lần lượt
trình bày thẩm quyền lập pháp và thẩm quyền kiểm soát.
A. Thẩm quyền lập pháp
Quốc hội biểu quyết
các đạo luật. Nói đến vấn đề biểu
quyết các đạo luật tức là đề cập đến vấn đề thủ tục lập pháp.
Thủ tục lập pháp
Ai có sáng quyền lập
pháp? Điều 43 Hiến pháp quy định rằng Dân biểu, Nghị sĩ và Tổng thống có sáng
quyền lập pháp. Những dự luật do sáng kiến của Dân biểu hay Nghị sĩ được gọi là dự
án luật. Những dự luật do Tổng thống chuyển sang Quốc hội được gọi là dự
thảo luật.
Giai đoạn 1 – Dự luật trước Hạ Nghị viện
“Các dự án luật và dự
thảo luật, gọi chung là dự luật phải được đệ nạp tại Văn phòng Hạ Nghị
viện (Điều 43, đoạn 3 Hiến pháp). Đây là quan niệm làm luật một chiều
mà nhà lập hiến đã chấp thuận, thể hiện vai trò ưu tiên của Hạ Nghị viện trong
thủ tục lập pháp.
Sau khi nhận được các dự luật, Chủ tịch Hạ
Nghị viện phải chuyển ngay các dự luật cùng hồ sơ và tài liệu đính hậu cho Chủ
tịch ủy ban liên hệ và gửi bản sao dự luật cho Chủ tịch các ủy ban khác. Và nếu
dự luật liên hệ đến nhiều ủy ban, Chủ tịch Viện triệu tập ngay Hội đồng thẩm
quyền để thành lập Liên ủy ban.
Chủ tịch ủy ban, sau
khi nhận được dự luật, triệu tập ủy ban để xác định thẩm quyền của mình và
trong trường hợp thẩm quyền được xác định, xét đến tính cách hợp lệ của dự
luật. Các dự luật hợp lệ sẽ được Ủy ban thảo luận, tu chính và biểu quyết từng
điều khoản. Ủy ban có thời hạn một tháng để cứu xét một dự luật. Thời hạn này
có thể gia hạn thêm một tháng bởi Hội đồng nghị trình hoặc rút
ngắn trong trường hợp khẩn cấp.
Thời gian rút ngắn sẽ do Hội đồng nghị trình
quyết định.
Khi cứu xét xong một dự luật, ủy ban làm bản
phúc trình để Nghị viện hoặc:
·
Chấp thuận bản văn
nguyên tắc;
·
Bác bỏ bản văn;
·
Hoãn cuộc thảo luận bản
văn trong một thời gian có hạn định.
Và trong trường hợp
Viện chấp thuận bản văn trên nguyên tắc, Viện sẽ thảo luận và biểu quyết các
điều khoản của dự luật đã được ủy ban chấp thuận và tu chính.
Giai đoạn 2 – Dự luật trước Thượng Nghị viện
“Trong mọi trường hợp, Hạ Nghị viện chấp thuận
hoặc bác bỏ một dự luật, Viện này đều chuyển dự luật đến Văn phòng Thượng Nghị
viện trong thời hạn ba ngày tròn.” (Điều 43, đoạn 4 Hiến pháp).
Diễn trình lập pháp tại Thượng Nghị viện cũng
tương tự như ở Hạ Nghị viện. Sau khi tiếp nhận dự luật và các tu chính án đã
được Hạ Nghị viện chấp thuận hay bác bỏ, Thượng Nghị viện giao cho Ủy ban liên
hệ để cứu xét và làm phúc trình cho Viện.
Thượng Nghị viện có thể: hoặc hoàn toàn đồng
quan điểm với Hạ Nghị viện, hoặc tu chính một hay nhiều điều khoản, hoặc hoàn
toàn bất đồng quan điểm với Hạ Nghị viện. Trong trường hợp Thượng Nghị viện
hoàn toàn đồng quan điểm với Hạ Nghị viện, nghĩa là:
·
Hoặc quan điểm của hai
Viện là chấp thuận, dự luật sẽ được chuyển đến Tổng thống để ban hành;
·
Hoặc quan điểm của hai
Viện là bác bỏ, tác giả dự luật sẽ được thông tri sự bác bỏ.
Trong trường hợp Thượng Nghị viện biểu quyết
tu chính một hay nhiều điều khoản cũng như trong trường hợp Thượng Nghị viện
biểu quyết hoàn toàn bất đồng quan điểm với Hạ Nghị viện, dự luật sẽ được gửi
về Văn Phòng Hạ Nghị viện trong thời hạn 3 ngày tròn, kèm theo quyết nghị có
viện dẫn lí do.
Giai đoạn 3 – Dự luật trở về Hạ Nghị viện
Quyết nghị của Thượng Nghị viện được trao cho
Chủ tịch ủy ban liên hệ để cứu xét và lập Phúc trình đề Nghị viện: giữ lập
trường của Hạ Nghị viện hoặc chấp nhận từng phần hay toàn phần quyết nghị của
Thượng Nghị viện. Trong trường hợp Hạ Nghị viện thay đổi ý kiến và chấp nhận
toàn phần quyết nghị của Thượng Nghị viện, vấn đề được giải quyết. Trái lại,
nếu Hạ Nghị viện cương quyết giữ lập trường hay chỉ chấp nhận một phần quyết
nghị của Thượng Nghị viện, vấn đề trở nên khó khăn. Thông thường quyết nghị sau
cùng này phải được chuyển sang Thượng Nghị viện một lần nữa. Nhưng nếu một lần
nữa Thượng Nghị viện lại bất đồng quan điểm? Lại trở về Hạ Nghị viện?
Sự chuyển đi chuyển
lại ấy làm mất thời giờ và cuộc tranh chấp giữa hai Viện trở thành vô tận. Để
cho thủ tục lập pháp giản dị và nhanh chóng, Hiến pháp giải quyết vấn đề bằng
cách trao cho Hạ Nghị viện tiếng nói sau cùng.
“Trong trường hợp
này (trường hợp bất đồng quan điểm), Hạ Nghị viện có quyền chung quyết dự luật
với đa số hai phần ba tổng số Dân biểu.“ (điều 43, đoạn 7)
Nhưng tiếng nói sau
cùng này là tiếng nói sau cùng có điều kiện, nghĩa là “Nếu Hạ Nghị viện
không hội đủ đa số hai phần ba nói trên, quan điểm của Thượng Nghị viện được
coi là chung quyết.” (điều 43, đoạn 8 )
B. Kiểm soát chính phủ
trong việc thi hành chính sách quốc gia
Điều 39 khoản 5 ghi rõ rằng: Quốc hội có thẩm
quyền kiểm soát Chính phủ trong việc thi hành chính sách quốc gia. Với những
phương tiện nào, Quốc hội sử dụng thẩm quyền quan trọng ấy? Theo Hiến pháp và
tùy mức độ quan trọng, chúng ta có thể nói rằng Quốc hội có quyền yêu cầu nhân
viên chính phủ tham dự phiên họp của ủy ban, quyền chất vấn, quyền khuyến cáo.
1. Quyền yêu
cầu nhân viên chính phủ tham dự các phiên họp các ủy ban
Theo điều 42 khoản 2: “Chủ tịch ủy ban của mỗi
Viện có quyền yêu cầu các nhân viên chính phủ tham dự các phiên họp của ủy ban
để trình bày về các vấn đề liên quan đến Bộ sở quan.”
Lẽ dĩ nhiên, sự hiện diện cùng sự trình bày
của vị Tổng trưởng trong một phiên họp của ủy ban thể hiện sự hợp tác và đối
thoại cần thiết giữa lập pháp và hành pháp. Chính trong những phiên họp ấy.
Quốc hội sẽ dễ thông cảm sự khó khăn của Hành pháp, sự phức tạp của vấn đề,
đồng thời các vị tổng trưởng cũng hiểu rõ thêm dân tình xuyên qua các vị đại
diện. Dù sao, đây cũng là phương tiện để Quốc hội kiểm soát Hành pháp và phương
diện này đã được sử dụng và lạm dụng trong năm đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng
hòa.
2. Quyền chất
vấn
“Mỗi Viện với một phần
ba tổng số Dân biểu hay Nghị sĩ có quyền yêu cầu Thủ tướng, hay các nhân viên
Chính phủ ra trước Viện sở quan để trả lời các câu chất vấn về sự thi hành
chính sách quốc gia” (Điều 40, khoản 1 Hiến pháp). Chất vấn quan trọng ở chỗ
chính Thủ tướng hoặc nhân viên chính phủ – nhưng thường thường là Thủ tướng –
sẽ trình bày và giải thích về sự thi hành chính sách quốc gia trong một
phiên họp khoáng đại của Hạ hoặc Thượng Nghị viện. Vì thế, kiến nghị
chất vấn hay câu chất vấn phải được 1/3 tổng số dân biểu hay
nghị sĩ yêu cầu và đệ nạp tại Văn phòng. Rồi chính Chủ tịch mỗi Viện sẽ gửi văn
thư yêu cầu Thủ tướng hay nhân viên chính phủ ra trước Viện để trả lời.
Cuộc chất vấn Chính phủ sẽ đưa đến hậu quả gì?
Hiến pháp không đề cập đến. Nhưng nội quy của hai Viện đã ghi rõ rằng cuộc chất
vấn sẽ kết thúc bằng một cuộc thảo luận và biểu quyết. Chiếu theo điều 245 nội
quy Hạ Nghị viện và điều 262 Nội quy Thượng Nghị viện, sau khi Thủ tướng cùng phái
đoàn chính phủ rời phòng họp, cuộc thảo luận và biểu quyết về cuộc chất vấn sẽ
diễn ra. Mỗi Viện có thể biểu quyết thỏa mãn hoặc không thỏa mãn về sự trả lời
của Chính phủ và đồng thời biểu quyết một số khuyến nghị hoặc biện pháp cần
thiết. Các biểu quyết ấy sẽ được thông tri cho Tổng thống và Chính phủ.
Biểu quyết kết thúc
cuộc chất vấn, trên phương diện Hiến pháp, không đưa đến một hậu quả pháp lí
nào. Tuy nhiên, trên phương diện chính trị, chất vấn thể hiện quyền kiểm soát
chặt chẽ mức độ tín nhiệm của Quốc hội đối với cá nhân Thủ tướng Chánh phủ
trong việc thi hành chính sách quốc gia. Và trong trường hợp đa số trả lời
không thỏa mãn, Quốc hội có thể bước sang giai đoạn quyết liệt hơn, có hậu quả
pháp lí hơn, đó là quyền khuyến cáo.
3. Quyền
khuyến cáo
Điều 42 Hiến pháp quy định rằng:
“Quốc hội có quyền khuyến cáo thay thế từng
phần hay toàn thể chính phủ với đa số hai phần ba tổng số dân biểu và Nghị sĩ.
Nếu Tổng thống không có lí do đặc biệt để
khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực.
Trong trường hợp Tổng thống khước từ, Quốc hội
có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số ¾ tổng số Dân biểu và Nghị sĩ. Sự
khuyến cáo sau này của Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày chung quyết”.
Điều 42 trên đây là
điều khoản căn bản trong mối tương quan Hành pháp và Lập pháp, đồng thời cũng
là điều khoản điển hình phản ảnh sự mâu thuẫn của Quốc hội Lập hiến trong khi
thảo luận Hiến pháp.[3] Chúng ta sẽ lần lượt trình bày nội dung của
quyền khuyến cáo và thủ tục khuyến cáo.
C. Phân tích điều
khoản 42
Điều 42 trước nhất cho
phép Quốc hội nói lên sự bất tín nhiệm toàn thể Nội các hoặc một hay vài Tổng
trưởng. Nhưng vì tinh thần của chế độ, dù sao cũng là Tổng thống Chế, Quốc hội
không thể bất tín nhiệm, mà chỉ có quyền khuyến cáo cùng Tổng thống thay
thế từng phần hay toàn thể Chính phủ.
Thứ hai, mặc dù Quốc
hội chỉ có quyền khuyến cáo nhưng trong thực tế, khuyến cáo thay đổi tức là đặt
vấn đề bất tín nhiệm chính trị, vì thế quyền khuyến cáo chỉ có thể sử dụng với
điều kiện là hai phần ba tổng số Dân biểu và Nghị sĩ chấp thuận.
Thứ ba, vì là khuyến cáo nên Tổng thống có
quyền khước từ với lí do đặc biệt. Và trước sự khước từ của Tổng thống, Quốc
hội có thể chung quyết sự khuyến cáo ấy lại với đa số ba phần tư. Trong trường
hợp này sự khuyến cáo có hiệu lực.
D. Thủ tục khuyến cáo
Điều 42 kể trên chỉ đề cập đến quyền khuyến
cáo với tất cả hậu quả của nó. Nhưng làm thế nào để áp dụng quyền khuyến cáo?
Phải theo thủ tục như thế nào? Nhà lập hiến không nói đến và sự sơ xuất này đưa
đến tình trạng hỗn loạn và tranh chấp, trong hai nội quy của Hạ và Thượng Nghị
viện. Chúng ta thử lần lượt phân tích và nhận xét thủ tục khuyến cáo.
1. Thủ tục
khuyến cáo trước Hạ Nghị viện (từ điều 249 đến điều 257 nội quy)
* Trong trường hợp sự khuyến cáo khởi đầu tại
Hạ Nghị viện:
·
Đề nghị phải có chữ kí
của 1/3 tổng số Dân biểu, phải viết thành văn thư trình bày lí do, kèm theo các
tài liệu chứng minh và phải ghi tên nhân viên chính phủ liên hệ;
·
Chủ tịch Viện thông tri
cho Thủ tướng và nhân viên chính phủ liên hệ sau khi vấn đề được ghi vào chương
trình nghị sự, đồng thời thông tri cho Thượng viện;
·
Nhân viên chính phủ được
quyền giải thích trước Viện và sau cuộc thảo luận, Viện sẽ biểu quyết theo lối
bỏ phiếu kín;
·
Quyết nghị khuyến cáo
nếu hội đủ 2/3 tổng số Dân biểu được Chủ tịch Viện thông tri cho Tổng thống, đồng
thời gửi văn thư yêu cầu Chủ tịch Thượng Nghị viện đưa vấn đề khuyến cáo ra
thảo luận trước Thượng Nghị viện.
* Trong trường hợp khuyến cáo khởi đầu tại
Thượng Nghị viện:
·
Sau khi tiếp nhận, Chủ
tịch Hạ Nghị viện thông tri cho toàn thể dân biểu, đồng thời giao cho Ủy ban
thường trực liên hệ cứu xét và phúc trình trước Viện;
·
Hạ Nghị viện sẽ chấp
thuận quyết nghị này nếu hội đủ 2/3 tổng số Dân biểu;
·
Chủ tịch Hạ Nghị viện
thông tri quyết định của Viện cho Tổng thống đồng thời thông báo cho Thượng
Nghị viện;
·
Trong trường hợp Tổng
thống khước từ khuyến cáo, Chủ tịch sẽ liên lạc với Chủ tịch Thượng Nghị viện
để tìm giải pháp.
2. Thủ tục
khuyến cáo trước Thượng Nghị viện (từ điều 268 đến điều 282 nội quy)
* Trong trường hợp khuyến cáo khởi đầu tại
Thượng Nghị viện:
·
Đề nghị khuyến cáo phải
mang chữ kí ít nhất 15 Nghị sĩ, phải được ghi trong một bản văn có viện dẫn lí
do, kèm theo tài liệu nếu có, phải ghi rõ tên và chức vụ của nhân viên chính
phủ bị trách cứ;
·
Nếu Hội đồng chủ tịch
nhận xét đề nghị khuyến cáo có lí do chính đáng, đề nghị khuyến cáo được ghi
vào nghị trình buổi họp sớm nhất;
·
Thượng Nghị viện với đa
số quá bán, có thể yêu cầu Thủ tướng hoặc nhân viên chánh phủ bị trách cứ đến
giải thích. Chủ Tịch Thượng Nghị viện sẽ theo thông tri quyết định này cho Thủ
tướng kèm theo bản sao đề nghị khuyến cáo, đồng thời gửi Thông điệp thông báo
cho Tổng thống;
·
Quyết nghị khuyến cáo,
nếu hội đủ 2/5 tổng số nghị sĩ, sẽ được Chủ tịch Thượng Nghị viện thông báo cho
Thủ tướng và Chủ tịch Hạ Nghị viện và đồng thời yêu cầu đưa vấn đề khuyến cáo
ra thảo luận trước Hạ Nghị viện;
·
Biểu quyết của Hạ Nghị
viện về vấn đề khuyến cáo được Chủ tịch Hạ Nghị viện thông tri cho Chủ tịch
Thượng Nghị viện. Biểu quyết của Hạ Nghị viện hội đủ 2/3 tổng số Dân biểu được
Chủ tịch Thượng Nghị viện thông báo cho Tổng thống và thông tri cho Thủ tướng.
* Trong trường hợp khuyến cáo khởi đầu tại Hạ
Nghị viện:
·
Sau khi nhận được quyết
định khuyến cáo của Hạ Nghị viện, Chủ tịch Thượng Nghị viện thông tri quyết
định ấy cho các Nghị sĩ và giao cho Ủy ban liên hệ hoặc một Ủy ban đặc biệt
được thành lập để cứu xét và phúc trình;
·
Chủ tịch Thượng Nghị
viện thông tri cho Chủ tịch Hạ Nghị viện quyết nghị của Thượng Nghị viện và
thông báo cho Tổng thống và Thủ tướng quyết nghị khuyến cáo hội đủ 2/3 tổng số
nghị sĩ;
Và trong trường hợp khuyến cáo bị khước từ,
Chủ tịch Thượng Nghị viện triệu tập Thượng Nghị viện, chậm nhất là 3 ngày sau
khi nhận được thông điệp. Thượng Nghị viện sẽ chung quyết khuyến cáo với ¾ tổng
số nghị sĩ. Chủ tịch Thượng Nghị viện sẽ thông báo này cho Tổng thống và Chủ
tịch Hạ Nghị viện. Chung quyết của Hạ Nghị viện được Chủ tịch Hạ Nghị viện
thông báo cho Chủ tịch Thượng Ngị Viện. Nếu chung quyết của Hạ Nghị viện hội đủ
số thăm ba phần tư trong số dân biểu, Chủ tịch Thượng Nghị viện thông báo cho
Tổng thống quyết nghị khuyến cáo của Quốc hội.
Nhận xét
Qua sự trình bày thủ tục khuyến cáo chiếu theo
nội quy của hai Viện, cảm giác chung của độc giả là cảm giác của một sự hỗn
loạn vô biên. Trước sự im lặng của nhà lập hiến, Quốc hội không hiểu hoặc không
muốn hiểu tinh thần bản Hiến pháp, tự đặt ra một thủ tục rườm rà, đôi khi lại
tréo cẳng ngỗng.
1. Thật vậy, thủ tục
khuyến cáo của Quốc hội theo hình thức một thủ tục lập pháp thông thường. Nhưng
người ta có thể tự hỏi: theo thủ tục lập pháp thông thường, một dự luật, dù kém
quan trọng đến đâu, phải được đệ nạp tại Văn phòng Hạ Nghị viện. Vậy Thượng
Nghị viện, dựa trên căn bản nào để có quyền khởi đầu sự khuyến cáo?
Nếu mỗi Viện đều có quyền khởi đầu sự khuyến cáo và nếu hai Viện giành quyền
khởi đầu khuyến cáo, sáng tại Viện này, chiều tại Viện kia, tình trạng hỗn loạn
sẽ đi đến đâu?
2. Trong lúc Hạ Nghị viện đòi hỏi 1/3 dân biểu
để đề nghị khuyến cáo có giá trị thì nội quy Thượng Nghị viện chỉ ấn định có 15
nghị sĩ. Dựa trên căn bản nào Thượng Nghị viện lại ấn định con số 15? Như chúng
ta đã thấy, điều 40 của Hiến pháp, khi đề cập đến thủ tục chất vấn, đòi hỏi 1/3
tổng số dân biểu hay nghị sĩ. Ở đây khuyến cáo có thể xem là giai đoạn hai của
chất vấn, giai đoạn quan trọng hơn thì không lí do nào điều kiện tiên quyết –
số chữ kí – lại thấp hơn.
3. Vấn đề thông báo quyết nghị khuyến cáo cho
Tổng thống đưa đến một tình trạng buồn cười. Trong lúc Hạ Nghị viện ấn định
nguyên tắc theo đó Viện nào thi hành giai đoạn sau cùng của thủ tục khuyến cáo
có nhiệm vụ thông báo cho Tổng thống, thì Thượng Nghị viện luôn luôn tự cho
mình ưu quyền thông báo kết quả cuối cùng cho Tổng thống. Và trong trường hợp
Tổng thống khước từ khuyến cáo, nội quy Hạ Nghị viện ấn định rằng Chủ Tịch Viện
sẽ liên lạc với Chủ tịch Thượng Nghị viện để tìm giải pháp, trong lúc đó nội
quy Thượng Nghị viện dành ưu quyền chung quyết trước cho Thượng Nghị viện!
4. Khuyến cáo thay đổi
từng phần hay toàn thể là một hành vi pháp lí và chính trị tối quan trọng.
Chung quy đó là bất tín nhiệm chính phủ và nhà lập hiến đã du
nhập một kĩ thuật của đại nghị chế vào Hiến pháp 1967 để dung hòa những khuynh
hướng tương phản của Quốc hội Lập hiến. Một quyết nghị bất tín nhiệm chính phủ
phải được quyết định nhanh chóng – trong vòng 24 hoặc 48 tiếng đồng hồ – với
tất cả hậu quả chính trị và tâm lí của nó, chứ không thể kéo dài trong ba tuần
lễ nếu chúng ta theo sát nội quy của hai Viện.
Những nhận xét trên
đây cho chúng ta thấy Quốc hội trong việc ấn định thủ tục khuyến cáo đã đi trật
đường rầy và vi phạm Hiến pháp. Vì tinh thần của điều 42, một số danh từ của
điều khoản ấy cũng như biên bản của Quốc hội Lập hiến chứng minh một cách hùng
hồn rằng thủ tục khuyến cáo phải được đặt trong khung cảnh của một
phiên họp khoáng đại lưỡng viện.
Như đã trình bày,
quyết định khuyến cáo thay đổi chính phủ là một quyết định tối quan trọng có
thể đưa đến một cuộc khủng hoảng chính trị đầy hậu quả trong sinh hoạt quốc
gia. Một quyết định như thế phải là một quyết định của Quốc hội trong
một phiên họp khoáng đại lưỡng viện, trang nghiêm, long trọng. Hơn nữa, theo
tài liệu của Quốc hội Lập hiến, khi nào Hiến pháp đề cập đến Quốc hội –
chứ không phải mỗi Viện hay Viện sở quan – và 2/3 tổng số dân biểu và
nghị sĩ – chứ không phải 2/3 tổng số dân biểu hay nghị sĩ
– thì chúng ta nên hiểu rằng đó là phiên họp khoáng đại lưỡng viện của Quốc
hội. Vấn đề đặt ra là Quốc hội nên sửa đổi nội quy để thi hành đứng đắn tinh
thần và nội dung của điều khoản 42.
Để trở lại quyền khuyến cáo, đa số 2/3 và ¾ là
một điều kiện mà Quốc hội khó đạt được. Tuy nhiên quyền khuyến cáo trong thực
tế cho phép một câu đối thoại chính thức giữa Hành pháp và Lập pháp, là dịp mà
Chính phủ và Quốc hội thảo luận các vấn đề trọng đại liên hệ đến chính sách và
sự thi hành chính sách quốc gia. Và dù quyết nghị khuyến cáo không đạt được đa
số hiến định, quyết nghị ấy còn có một áp lực chính trị và tâm lí đáng kể. Thủ
tướng có thể hi sinh một vài Tổng Trưởng không được Quốc hội hài lòng cũng như
Tổng thống có thể, căn cứ vào quyết nghị ấy, xét lại thành tích Nội Các và tự ý
cải tổ chính phủ. Đó là trường hợp giải nhiệm nội các Nguyễn văn Lộc vào tháng
5/1968.
5. Để kết thúc thẩm quyền kiểm soát, cần phải
nhấn mạnh rằng phương tiện cổ điển và hữu hiệu hơn cả là quyền biểu quyết dự
luật ngân sách (điều 46 Hiến pháp) và cần phải ghi thêm rằng Thượng Nghị viện
còn có quyền mở cuộc điều tra về sự thi hành chính sách quốc gia và các yêu cầu
các cơ quan công quyền xuất trình các tài liệu cần thiết cho cuộc điều tra, và
chấp thuận việc bổ nhiệm các Trưởng nhiệm sở ngoại giao và Viện Trưởng các Viện
Đại học.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học.
In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
[1] Công báo Việt Nam Cộng hòa số
8. QH ngày 15 tháng 2 năm 1968 hàng 568/11
[2] Điều 277 Nội quy Hạ Nghị viện:
«Dân biểu không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác, trừ các
chức vụ giảng huấn tại các trường Đại học và Cao đẳng kĩ thuật. Khi giữ một
chức vụ công cử hay dân cử khác, Nghị sĩ được coi như trong tình trạng đặc
nhiệm và đương nhiên mất quyền thảo luận, quyền biểu quyết và các đặc quyền
trong suốt thời gian đặc nhiệm. Thời gian đặc nhiệm là một năm và có thể tái
nhiệm một năm nữa là tối đa».
[3] Về sự mẫu thuẫn này, xin xem Đào Hồng
Hải “Tìm hiểu Hiến pháp ngày 01-04-1967 qua quá trình hình thành của nó”, Luận
văn tốt nghiệp Cao học Hành chính khóa II 1968, trang 54.