Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Luật Hiến pháp và Chính trị học (16)

Xem các phần: (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15)


Nguyễn Văn Bông


THIÊN THỨ BANHỮNG CHẾ ĐỘ VÙNG ĐÔNG NAM Á

CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ ĐẠI HÀN
Nghiên cứu chế độ chính trị Đại Hàn là một điều lí thú. Vì Hàn Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng sâu rộng. Thật vậy, hai quốc gia đều có một nền văn minh lệ thuộc Trung Quốc, bao lần chịu ách ngoại xâm. Cũng như Việt Nam, Hàn Quốc là một xứ chậm tiến chuyên về nông nghiệp: Bắc Hàn có núi đồi, hầm mỏ, Nam Hàn với đồng ruộng phì nhiêu. Và sau Thế giới Đại chiến thứ nhì, cả hai quốc gia đã cùng chung số phận với lãnh thổ qua phân và hai chế độ chính trị hoàn toàn khác biệt.
Mục I: LƯỢC SỬ CHÍNH TRỊ ĐẠI HÀN

Đoạn 1: TỪ 1945 ĐẾN 1960

Sau Thế giới Đại chiến thứ nhì kết liễu, quân đội Đồng minh sang Cao Li để giải giới Nhật: Bắc do quân Nga chiếm đóng. Miền Nam do quân đội Mỹ. Vĩ tuyến 38 là ranh giới tạm thời giữa hai quân đội Đồng minh chiếm đóng. Lợi dụng tình trạng thực tế do chiến tranh gây ra, Mỹ cũng như Nga cố gắng ủng hộ và đặt những chính phủ về phe mình. Ở Miền Bắc Nga đặt hệ thống của bộ máy cộng sản và dung túng chính phủ tả khuynh. Ở Nam, Mỹ và Liên Hiệp Quốc tổ chức một nếp sống dân chủ. Trong cuộc tổng tuyển cử ngày 10.5.1948, Lí Thừa Vãn[1] và Đảng Quốc gia của ông đại thắng. Đến ngày 20.7.1948, Lí Thừa Vãn được bầu làm Tổng thống Đại Hàn, chiếu theo Hiến pháp được ban hành ngày 17.7.1948.
Chính quyền Cộng hòa Miền Nam vừa bắt tay vào việc chưa đầy hai năm thì Chính phủ Bắc Hàn – ngày 25.6.1950 – nghĩa là một năm sau khi Cộng sản Trung Hoa toàn thắng trên Lục địa – lợi dụng ưu thế của quân đội hùng mạnh và có lẽ đó cũng là một kế hoạch thôn tính toàn thế giới của Stalin – mở cuộc tấn công vũ bão tràn qua vĩ tuyến thứ 38 và không bao lâu chiếm Thủ đô Hán Thành! Thiếu chuẩn bị, quân đội Nam Hàn phải thoái lui. Nhưng với sự trợ giúp của Liên Hiệp Quốc – và nhất là của Mỹ – Nam Hàn mở cuộc phản công dữ dội đánh lui quân đội Bắc Hàn, chiếm lại thủ đô, vượt sang vĩ tuyến 38 và tiến luôn đến biên giới Trung Hoa. Trước sự tan vỡ của quân đội Bắc Hàn, Trung Cộng can thiệp. Thế rồi phản công và tấn công tiếp diễn để rồi hai lực lượng quân bình nhau quanh vĩ tuyến 38, chờ đợi một giải pháp chính trị. Một cuộc hòa đàm chậm chạp đã diễn ra tại Bàn Môn Điếm đi đến kết quả: 27-7-1953 thỏa ước đình chiến giữ nguyên tình trạng cũ của hai nước Hàn phân chia.
Trong lúc miền Bắc vẫn củng cố chế độ độc tài vô sản, ở miền Nam Lí Thừa Vãn mặc dù uy tín lên cao sau khi mộng xâm lăng của Bắc Hàn tan vỡ, lại phải đương đầu với một tình trạng khó khăn.
Trên phương diện ngoại giao, chính sách của Chính phủ Lí Thừa Vãn là:

·         Siết chặt mối bang giao giữa Hoa Kỳ và Đại Hàn;
·         Cương quyết chống cộng sản và Nhật Bản;
·         Tranh đấu hầu có đại diện tại Liên Hiệp Quốc.

Đối nội, Tổng thống Lí Thừa Vãn tập trung hết quyền lực trong tay, dựa trên giai cấp đại tư bản và địa chủ. Trong lúc thành phần thống trị sống cuộc đời xa hoa, tráng lệ, các tầng lớp trung gian khác, đã từng chịu đựng mọi đau khổ của chiến tranh, lại vẫn vất vả vì tình trạng kinh tế ngày càng trầm trọng. Quần chúng đã bất bình lại phẫn nộ thêm lên khi hay tin chính quyền gian lận trong cuộc bầu cử năm 1960. Nhiều cuộc biểu tình phản đối Lí Thừa Vãn. Trước sự chống đối của quần chúng và áp lực của quân đội, Lí Thừa Vãn phải ra đi vào tháng 4 năm 1960. Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn và đồng thời cũng là một chế độ độc tài đã cáo chung.

Đoạn 2: TỪ 1960 ĐẾN CUỘC ĐẢO CHÍNH NGÀY 16-5-1961

Sau khi chế độ Lí Thừa Vãn sụp đổ, để tránh sự tập trung quyền lực trong tay Tổng thống, Quốc hội Đại Hàn, tháng 6 năm 1960 tu chính Hiến pháp, ấn định một chế độ Nghị viện, Tổng thống chỉ còn là một vị Quốc trưởng vô trách nhiệm, không quyền hành, tượng trưng cho quốc gia. Tháng 7-1960, Đảng Dân chủ, đối lập với Lí Thừa Vãn toàn thắng trong cuộc tổng tuyển cử và đưa Trương Miễn [2] lên nắm chính quyền.
Chính phủ Trương Miễn ban hành một số biện pháp dân chủ để trấn an dư luận, như tự do báo chí, ân xá chính trị phạm, quyền tự do công khai hoạt động của chính đảng, bắt giam và xét xử nhiều nhân vật liên hệ đến chế độ cũ v.v… Các biện pháp này làm vừa lòng một phần nào giới trí thức, sinh viên và các đảng phái tại đô thị. Nhưng ở thôn quê tình thế vẫn không thay đổi. Tình trạng kinh tế càng ngày càng nguy ngập. Nhiều cuộc biểu tình đã xẩy ra vì nông dân cơ cực phải đứng lên tranh đấu đòi nâng cao mực sống của họ.
Lợi dụng sự bất mãn của nông dân và một chính thể dân chủ hỗn loạn, cán bộ cộng sản hoạt động gây rối. Trước một tình trạng bất an ngày càng trầm trọng, Chính phủ Trương Miễn bắt buộc phải ban hành đạo luật an ninh tháng 3-1961, cấm chỉ mọi tụ tập, biểu tình, bạo động.
Mặc dù vậy, những cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn trong toàn quốc. Trước tình trạng bất an, trước nạn tham nhũng lan tràn và sự đe dọa trầm trọng của cộng sản, chính quyền Trương Miễn trở nên bất lực. Dân chúng mất tin tưởng. Và lợi dụng thời cơ, quân đội đảo chính ngày 16-5-1961.

Đoạn 3: SAU CUỘC ĐẢO CHÍNH 1961
Sau cuộc đảo chính thành công, chính quyền quân nhân giải tán Quốc hội và ngưng áp dụng Hiến pháp năm 1948. Tạm thời hai cơ quan công quyền trung ương được thiết lập: Hội đồng Tối cao Kiến thiết Quốc gia và Ủy ban Thường trực.
Hội đồng Tối cao Kiến thiết Quốc gia là cơ quan thể hiện chủ quyền quốc gia gồm 32 hội viên được chia 7 Tiểu ban: Tư pháp, Nội vụ, Ngoại giao và Quốc phòng, Giáo dục và Xã hội, Kinh tế, Tài chính, Giao thông Vận tải.

Ủy ban Thường trực, gồm 1 chủ tịch và 7 ủy viên. 7 ủy viên này là 7 chủ tịch của các Tiểu ban của Hội đồng Tối cao Quốc gia. Trong thực tế, chính Ủy ban Thường trực là cơ quan đầu não, tập trung quyền Hành pháp và Lập pháp.

Tuy nhiên tình thế chính trị vẫn rối ren và bị xáo trộn bởi sự nghi kị tranh giành giữa các tướng lãnh nhất là hai Tướng Trương Đỗ Anh và Phác Chánh Hi[3]. Sau cuộc đảo chính, Tướng Trương Đỗ Anh được cử làm Chủ tịch Hội đồng Tối cao Kiến thiết Quốc gia kiêm Thủ tướng Chính phủ. Tướng Phác Chánh Hi là Phó Chủ tịch đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Thường trực. Thực sự, quyền hành nằm trong tay Tướng Phác Chánh Hi vì chính Tướng này là kẻ chủ mưu cuộc đảo chính. Sở dĩ Tướng Trương Đỗ Anh được đưa lên hàng danh dự vì Tướng Trương Đỗ Anh là người anh cả, một tướng giỏi được quân đội mến phục. Sự tranh giành giữa hai tướng đã đưa đến một cuộc «Thanh trừng nội bộ» mà hậu quả là việc hạ bệ Tướng Trương và Tướng Phác Chánh Hi trở thành Chủ tịch Hội đồng Tối cao Kiến thiết Quốc gia.

Sau khi củng cố quyền hành, chính quyền quân nhân cho soạn thảo bản Hiến pháp mới và hứa chuẩn bị một sự bình thường hóa cuộc sinh hoạt chính trị. Bầu không khí chính trị Đại Hàn bắt đầu sôi động khi chính quyền ban hành đạo luật ấn định việc tổng tuyển cử dân biểu Quốc hội. Giới quân nhân ủng hộ chính quyền đứng ra thành lập Đảng Dân chủ Cộng hòa. Đồng thời hai chính đảng đối lập Đảng Dân chính và Đảng Dân chủ liên kết nhau và hoạt động ráo riết đòi hỏi một chính phủ dân sự.
Giữa lúc ấy, vào tháng 3-1963, một cuộc âm mưu đảo chính bị tiết lộ. Nhiều tướng lãnh bị bắt giam. Tướng Phác Chánh Hi bất thần, thay đổi lập trường và tuyên bố rằng sẽ mở cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề triển hạn nhiệm kì của chính phủ quân nhân thêm 4 năm. Lập trường mới này gây nhiều xúc động trong quần chúng. Các chính đảng đối lập, các đoàn thể sinh viên, thanh niên biểu tình, chống đối mãnh liệt ý định triển hạn chính phủ quân nhân. Chính phủ Hoa Kỳ cũng công khai phản đối Tướng Phác Chánh Hy và yêu cầu ông giữ đúng lời hứa sớm trao quyền lại cho dân sự.
Trước áp lực ấy, Tướng Phác Chánh Hi nhượng bộ. Ông hủy bỏ tu chính Hiến pháp triển hạn 4 năm chính phủ quân nhân, công bố chương trình dân sự hóa chính quyền với việc ấn định ngày bầu cử Tổng thống và Quốc hội, đồng thời ông ra tranh cử Tổng thống dưới lá cờ của Đảng Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 15-10-1963 – Tướng Phác Chánh Hi toàn thắng trong cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội chiếm 110 ghế trong số 175 ghế dân biểu.
Đệ Tam Cộng hòa Đại Hàn, với Hiến pháp 1962, bắt đầu một giai đoạn mới.

Mục II: HIẾN PHÁP ĐẠI HÀN
Hiến pháp Đại Hàn năm 1962, thiết lập nền Đệ tam Cộng hòa đã đem ra trưng cầu dân ý. 8.243.000 phiếu thuận và 1.992.000  phiếu chống. Bản Hiến pháp dài 119 điều khoản gồm lời nói đầu và 5 chương chia ra như sau: Chương I: Điều khoản tổng quát; Chương II: Quyền lợi và nghĩa vụ công dân ; Chương III: Những cơ quan chính quyền; Chương IV: Kinh tế ; Chương V: Tu chính Hiến pháp.
Trước khi phân tích cơ cấu cùng những mối tương quan giữa cơ quan công quyền, thiết tưởng nên nêu lên một vài đặc điểm của Hiến pháp Đại Hàn.
Những đặc tính tổng quát của Hiến pháp Đại Hàn

1. Đặc điểm thứ nhất là bản Hiến pháp xác định tính cách thế tục của Quốc gia. Thật vậy, sau khi bảo đảm rằng mỗi công dân có quyền tự do tín ngưỡng, điều 16 quy định rằng: «Không có một tôn giáo nào được nhìn nhận là Quốc giáo và tôn giáo tách rời chính trị».
2. Đặc điểm thứ nhì liên quan đến các chính đảng. Bản Hiến pháp dành 4 điều khoản quan trọng – các điều 7, 36, 38, 63 nói về chính đảng. Điều thứ 7 quy định rằng: «Các chính đảng được tự do thành lập và chế độ đa đảng được đảm bảo, tổ chức và hoạt động của mỗi chính đảng phải có tính cách dân chủ và các chính đảng sẽ tổ chức thế nào để nhân dân có thể tham gia vào việc ấn định ý chí chung. Nhà nước sẽ bảo vệ các chính đảng. Tuy nhiên nếu mục đích hay hoạt động của chính đảng nào đi ngược lại với trật tự dân chủ căn bản, chính phủ sẽ truy tố chính đảng đó trước Tối cao Pháp viện để phán quyết về việc giải tán chính đảng».

Điều khoản này nhấn mạnh tầm quan trọng của chính đảng trong cuộc sinh hoạt chính trị. Chính đảng là một định chế chính trị ghi vào Hiến pháp. Tầm quan trọng của chính đảng lại được xác nhận thêm bởi điều 36 ấn định rằng: «Không ai có thể là ứng cử viên dân biểu Quốc hội nếu không được đắc cử bởi chính đảng của mình.» Và điều 63: «Không ai có thể là ứng cử viên Tổng thống nếu không được đề cử bởi một chính đảng mình». Và điều 38: «Vị nào từ bỏ đảng mình, hoặc thay đổi chính đảng, hoặc vì lí do đảng mình bị giải tán, trong nhiệm kì Quốc hội sẽ mất ghế dân biểu. Điều khoản này sẽ không áp dụng trong trường hợp vị dân biểu bị trục xuất khỏi đảng hoặc khi có sự hợp nhất chính đảng».
Những đặc điểm chúng ta vừa kể không những nhấn mạnh tầm quan trọng của chính đảng, định chế hóa chính đảng mà còn nhằm mục tiêu giới hạn tổng số chính đảng để tránh hậu quả tai hại của một sự lạm phát đảng phái sau ngày cách mạng Đại Hàn.
3. Đặc điểm thứ ba liên quan đến chính thể. Hiến pháp 1962 dung hòa những yếu tố Tổng thống Chế và Nghị viện Chế. Điều này chúng ta có dịp bàn đến.
Đoạn 1: QUỐC HỘI

A. Tổ chức và thẩm quyền

Quốc hội Đại Hàn, chiếu theo Hiến pháp 1962 là một Quốc hội độc viện, nắm quyền lập pháp. Dân biểu Quốc hội được bầu theo chế độ phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và kín. Ứng cử viên phải do một chính đảng đề cử. Nhiệm kì của Quốc hội là 4 năm. Dân biểu được hưởng những đặc miễn và bị ràng buộc bởi những bất khả kiêm nhiệm.

Quốc hội chỉ nhóm họp, một khóa thường lệ không quá 120 ngày. Và khóa bất thường không quá 30 ngày.

Quốc hội biểu quyết các đạo luật, ngân sách quốc gia, chấp thuận việc tuyên chiến, việc gửi quân lực ra hải ngoại, việc cho phép quân lực ngoại quốc đóng trên lãnh thổ Đại Hàn, phê chuẩn các Hiệp ước liên hệ đến nền anh ninh chung, đến các tổ chức quốc tế, đến quy chế quân lực ngoại quốc đóng trên lãnh thổ, các Hiệp ước đình chiến, thương mại và các Hiệp ước có ảnh hưởng tài chính quốc gia.

B. Quốc hội và chính phủ
Trong mối tương quan giữa Quốc hội và Chính phủ, Hiến pháp Đại Hàn dành một ưu thế tương đối cho Quốc hội. Ưu thế được thể hiện qua hai quyền quan trọng của Quốc hội: đó là quyền đề nghị bãi chức Thủ tướng và các Tổng trưởng và quyền truy tố Hành pháp trong trường hợp vi phạm Hiến pháp.
1. Quyền đề nghị bãi chức Thủ tướng và nhân viên Chính phủ 
Chiểu theo điều 59 «Quốc hội có thể yêu cầu Tổng thống bãi chức Thủ tướng hay một nhân viên của Hội đồng Quốc gia. Sự yêu cầu này phải do đa số tổng số dân biểu đề nghị. Trong trường hợp này, Tổng thống bắt buộc phải bãi chức các vị bị Quốc hội bất tín nhiệm ngoại trừ Tổng thống có lí do đặc biệt nào khác».
Đây là một quyền quan trọng của Quốc hội tương đương với quyền bất tín nhiệm Chính phủ trong chế độ Nghị viện. Trên nguyên tắc có một điều dị biệt: trong chế độ Nghị viện, Quốc hội có toàn quyền và Chính phủ bắt buộc phải từ chức ngay sau khi Quốc hội biểu quyết bất tín nhiệm. Theo Hiến pháp Đại Hàn, trái lại, Quốc hội chỉ có quyền yêu cầu Tổng thống và sự bất tín nhiệm của Quốc hội, có thể chỉ nhằm một nhân viên Chính phủ mà thôi. Tuy nhiên, trong thực tế, khi Thủ tướng bị Quốc hội bất tín nhiệm, khó lòng Tổng thống từ chối và như thế có thể đưa đến một sự khủng hoảng Nội các.
Dù sao, đây là một điều khoản áp dụng nguyên tắc trách nhiệm chính trị của Hành pháp vào một chế độ mà Tổng thống do toàn dân bầu lên.
2. Quyền truy tố Hành pháp

Chiểu theo điều 61: Quốc hội có quyền biểu quyết kiến nghị truy tố Tổng thống, Thủ tướng, Nhân viên của Hội đồng Quốc gia, các Tổng trưởng, các Thẩm phán và các công chức đã vi phạm Hiến pháp và luật lệ.
Kiến nghị truy tố phải do ít nhất 30 vị dân biểu đề nghị và phải được đa số tổng số dân biểu tán thành. Sau khi kiến nghị được chấp thuận, đương sự bị ngưng chức ngay và chờ đợi xét xử. Một hội đồng xét xử sẽ được thành lập và gồm:
·         1 Chủ tịch: Chủ tịch Tối cao Pháp viện
·         3 Thẩm phán của Tối cao Pháp viện
·         5 Dân biểu Quốc hội.
Trong trường hợp Chủ tịch Tối cao Pháp viện bị truy tố, vị Chủ tịch Hội đồng Xét xử là Chủ tịch Quốc hội.
Mọi quyết định trừng phạt phải hội ít ra 6 thăm (rất khó mà phê bình điều khoản này).
Đoạn 2: CHÍNH PHỦ
Danh từ chính phủ, theo nghĩa, Đại Hàn gồm 4 định chế riêng biệt: Tổng thống, Hội đồng Quốc gia, các Bộ trưởng và Hội đồng Kiểm soát.
A. Tổng thống
Tổng thống, đứng đầu Hành pháp, đại diện quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc. Tổng thống do nhân dân bầu qua một cuộc đầu phiếu phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và kín. Ứng cử viên Tổng thống phải có ít ra 40 tuổi và do một chính đảng đề nghị. Nhiệm kì của Tổng thống là 4 năm. Tổng thống chỉ được tái cử 1 lần. Trong trường hợp khiếm khuyết vì một lí do gì, Thủ tướng và Nhân viên Hội đồng Quốc gia, theo thứ tự luật định sẽ thay thế.
Về quyền hạn của Tổng thống, Hiến pháp Đại Hàn ghi rõ rằng Tổng thống, có quyền:
·         Kí các hiệp ước, bổ nhiệm các sứ thần, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao ;
·         Quyền tuyên chiến và kí hòa ước ;
·         Quyền ân xá, hoàn giảm hay phục hồi các tội phạm ;
·         Quyền bổ nhiệm các công chức ;
·         Quyền tuyên bố tình trạng khẩn cấp hay giới nghiêm và nhất là kí Sắc luật trong thời gian Quốc hội không nhóm họp. Điều 73 quy định rằng: «Trong trường hợp chiến tranh hay tình thế hiểm nghèo liên hệ đến bang giao quốc tế trong trường hợp thiên tai hay khủng hoảng kinh tế và tài chính, nếu cần có những quyết định khẩn cấp để bảo đảm an ninh và trật tự công cộng, Tổng thống có quyền kí các Sắc luật về tài chính và kinh tế. Tổng thống chỉ có quyền này trong trường hợp không thể triệu tập Quốc hội kịp thời».
Ngoài ra Tổng thống là Tổng Tư lệnh tối cao quân lực.
B. Hội đồng Quốc gia
Song song với sự hiện diện của Tổng thống, một cơ quan mệnh danh là Hội đồng Quốc gia ấn định và điều khiển chính sách quốc gia. Hội đồng Quốc gia gồm có:
·         Chủ tịch: Tổng thống
·         Phó Chủ tịch: Thủ tướng
·         Và một số nhân viên không quá 20 và không dưới 10.
Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm. Các nhân viên của Hội đồng Quốc gia cũng do Tổng thống bổ nhiệm, chiếu đề nghị của Thủ tướng.
Về thẩm quyền của Hội đồng Quốc gia, điều 86 của Hiến pháp kê khai một cách rõ ràng: Hội đồng Quốc gia bàn về các vấn đề sau đây:
·         Các kế hoạch căn bản liên hệ đến các vấn đề quốc gia và chính sách chung của Hành pháp;
·         Tuyên chiến, đình chiến và các vấn đề liên hệ đến ngoại giao;
·         Các dự thảo hiệp ước, dự thảo Luật hay Sắc lệnh của Tổng thống;
·         Các dự thảo ngân sách, các phúc trình tài chính;
·         Tuyên bố và bãi bỏ tình trạng giới nghiêm;
·         Các vấn đề quân sự quan trọng;
·         Việc triệu tập khóa họp bất thường của Quốc hội;
·         Các vấn đề ân xá, hoán giảm và phục hồi;
·         Thẩm quyền các Bộ;
·         Các vấn đề ủy quyền;
·         Ấn định và phối hợp chính sách của các Bộ;
·         Truy tố nhằm giải tán các chính đảng;
·         Xét các đơn khiếu nại hành vi của Chính phủ;
·         Việc bổ nhiệm một số công chức cao cấp như Tổng Tham mưu Trưởng các quân lực, các sứ thần, Viện trưởng Viện Đại học, các Giám đốc Xí nghiệp quan trọng của quốc gia v.v…
Danh sách các vấn đề này bao gồm tất cả công việc của Hội đồng Nội các. Tuy nhiên danh sách này không có tính cách hạn chế.
C. Các Bộ trưởng
Các Bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm trong số các nhân viên của Hội đồng Quốc gia, chiếu đề nghị của Thủ tướng. Như thế – và đây là một đặc điểm nhỏ về cơ cấu hành pháp của Hiến pháp Đại Hàn – là có một số nhân viên của Hội đồng Quốc gia không giữ Bộ nào.
Chính Thủ tướng là người điều khiển, đôn đốc và kiểm soát việc quản trị các Bộ của Chính phủ.
D. Hội đồng Kiểm soát

Hội đồng Kiểm soát là cơ quan của Chính phủ, dưới quyền điều khiển trực tiếp của Tổng thống. Hội đồng gồm ít nhất 5 nhân viên, nhiều nhất 16 nhân viên. Vị Chủ tịch do Tổng thống bổ nhiệm chiểu đề nghị của Chủ tịch Hội đồng Kiểm soát.
Nhiệm kì của Chủ tịch và các hội viên là 4 năm. Riêng vị Chủ tịch chỉ được tái bổ nhiệm một kỳ liền.
Hội đồng Kiểm soát có nhiệm vụ xem xét các phúc trình hàng năm về tài chính, chi và thu và trình cùng Tổng thống và Quốc hội.
Đoạn 3: PHÁP VIỆN TỐI CAO
Quyền tài phán, chiếu theo Hiến pháp Đại Hàn, được giao phó cho các Tòa  án mà Tối cao Pháp viện là cơ quan tài phán cao nhất.
Thành phần của Tối cao Pháp viện gồm có:

·         Một Chủ tịch, do Tổng thống bổ nhiệm với sự thỏa thuận của Quốc hội, chiếu theo đề nghị của Hội đồng giới thiệu các Thẩm phán, nhiệm kì là 6 năm.
·         Một số Hội thẩm, không quá 16, do Tổng thống bổ nhiệm, chiếu đề nghị của Chủ tịch Tối cao Pháp viện.

Nhiệm vụ: Tối cao Pháp viện xử chung thẩm mọi vụ kiện. Tuy nhiên, về phương diện luật Hiến pháp. Tối cao Pháp viện có hai thẩm quyền đáng chú ý: đó là quyền kiểm pháp và quyền giải tán các chính đảng.

Điều 102: “Tối cao Pháp viện có thẩm quyền quyết định chung thẩm về tính cách hợp hiến của một đạo luật, về tính cách hợp hiến hay hợp pháp của những quyết định hành chính”.
Điều 103: “Tối cao Pháp viện có thẩm quyền giải tán một đảng chính trị. Một quyết định như thế phải hội ít ra 3/5 tổng số hội viên của Tối cao Pháp viện. (Xin nhấn mạnh rằng chính Hội đồng Quốc gia truy tố và đề nghị giải tán một chính đảng.)

KẾT LUẬN
Một chế độ Tổng thống với vị chỉ huy Hành pháp mạnh như Hoa Kỳ. Tổng thống do dân bầu trực tiếp, có toàn quyền khi quốc biến. Đồng thời một Quốc hội độc lập không bị giải tán.
Song Hiến pháp Đại Hàn lại thêm một vài điểm thông thường của chế độ Nghị viện: Quốc hội chất vấn, điều tra bất tín nhiệm Thủ tướng Bộ trưởng.
Đứng trên phương diện lí thuyết, cơ cấu chính quyền như thế rất phức tạp và có thể có hiệu quả không hay về mặt ổn định chính trị.
Tuy nhiên tình hình chính trị Đại Hàn tương đối khả quan là nhờ tính cách ưu thế của Đảng Dân chủ Cộng hòa, đảng của Tướng Phác Chánh Hy. Thật vậy, nhìn lại lịch sử chính trị Đại Hàn trước ngày quân đội nắm chính quyền, chúng ta thấy rằng Đảng Dân chủ đã chiến đấu rất dũng cảm chống độc tài thắng một đa số tuyệt đối trong cuộc tuyển cử hồi tháng 7-1960 sau cuộc cách mạng của sinh viên. Đây là cuộc tuyển cử tương đối tự do và công bình nhất trong lịch sử chính trị Đại Hàn. Đảng Dân chủ được 175 ghế trong số 233 ghế trong Hạ Nghị viện và 31 ghế trong số 58 ghế trong Thượng Nghị viện. Đảng Dân chủ được mọi người công nhận là nhóm kết hợp của tất cả các khối chính trị bảo thủ đã nắm ưu thế trong cả Hạ và Thượng viện trong cuộc tuyển cử sau cuộc cách mạng của sinh viên được tổ chức vào ngày 20-7-1960, trong khi đó, các nhóm cải cách bị chế độ Rhee[4] đàn áp dữ dội làm cho trên bước đầu trong trường chính trị quốc gia của họ, họ chỉ được 5 ghế trong Hạ Nghị viện và 2 ghế trong Thượng Nghị viện trong cuộc tuyển cử này. Tuy nhiên, Đảng Dân chủ đã thực sự tách ra làm hai đảng cựu và tân do Yun Po-Sun[5] và Chang Myon lãnh đạo. Sự phân tách rõ rệt khi người lãnh đạo Tân đảng là ông Chang Myon đạt chức Thủ tướng. Cựu đảng do Cựu Tổng thống Yun Po-Sun lãnh đạo tổ chức thành Đảng Simmin hay Đảng Tân dân. Hai đảng này ngấm ngầm tranh đấu chống đối nhau và kết quả là tình hình chính trị chẳng bao lâu trở nên hỗn độn.
Tháng 5-1961 Đảng Dân chủ cầm quyền mất đa số trong Quốc hội vì sự bất hòa của Cựu đảng và bị Đảng Tân dân ngấm ngầm công kích trong Quốc hội, trong khi đó các nhóm cải cách và sinh viên cấp tiến vu khống đảng cầm quyền qua các cuộc biểu tình trên đường phố. Trước tình trạng nguy khốn ấy, ngày 16-5-1961 quân đội làm cách mạng lật đổ chính phủ của Đảng Dân chủ.
Cuộc cách mạng của quân đội mở thêm một chương mới trong lịch sử chính trị Đại Hàn. Các nhà cách mạng quân đội tố cáo các chính trị gia cũ bằng khẩu hiệu tiêu diệt những phần tử xấu xa cũ và sau 2 năm nắm quyền, quân đội tổ chức Đảng Dân chủ Cộng hòa có nhiều thế lực (đầu năm 1963) với những nhà chính trị tận tâm và hăng hái. Đảng có tính cách mới mẻ không những về thành phần đảng viên mà còn về tư tưởng chính trị dựa trên các khẩu hiệu như “Thay đổi thế hệ” – “Chủ nghĩa quốc gia”, “Thay đổi thái độ” cũng như kế hoạch ngũ niên về phát triển kinh tế. Đảng tự cho mình là phần tử tiền phong trong việc xây dựng quốc gia, từ bỏ những cái mà họ gọi là tham nhũng, xung đột đảng phái và âm mưu chính trị. Từ cuộc tuyển cử Tổng thống và Quốc hội năm 1963 cho tới khi Đảng Dân chủ Cộng hòa đạt được một đa số khá lớn trong các cuộc tuyển cử tương đối công bình, Tướng Phác Chánh Hy thành lập Đệ tam Cộng hòa. Đảng Dân chủ Cộng hòa chiếm một đa số gần 2/3 (110 ghế trong số 175 ghế trong Quốc hội), trong khi Đảng Tân dân do cựu Tổng thống Yun Po-Sun cầm đầu được 60 ghế còn Đảng Dân chủ và hai đảng thiểu số khác chiếm các ghế còn lại. Mùa hạ 1965 khi chính phủ Phác Chánh Hy và Đảng Dân chủ Cộng hòa muốn bình thường hóa mối bang giao với Nhật, Đảng Tân dân và Đảng Dân chủ hợp lại thành lập Đảng Quần chúng là đảng đối lập liên hiệp, phản đối đảng cầm quyền. Tuy nhiên, liên minh rộng lớn của các đảng đối lập không bao lâu thì tan rã vì bất đồng quan điểm về sự kiểm soát sự tiến gần giữa Đại Hàn và Nhật và xung đột đảng phái về thủ lãnh đảng.

Tóm lại, các đảng chính trị dưới thời Đệ tam Cộng hòa có hình thức của một hệ thống độc đảng vì Đảng Dân chủ Cộng hòa rất mạnh và người ta có thể tiên đoán rằng Tổng thống Phác Chánh Hy sẽ tái đắc cử trong nhiệm kì 2 và có thể cả nhiệm kì 3. Nếu chính phủ Dân chủ Cộng hòa của Tổng thống Phác thành công mĩ mãn kế hoạch ngũ niên thứ nhất về phát triển kinh tế (1962/66) và kế hoạch ngũ niên thứ hai (1967/71), nâng lợi tức tính trên đầu người lên tới 200 Mỹ kim vào năm 1967 và làm cho nền kinh tế không còn lệ thuộc vào ngoại viện nữa, có thể Đảng Dân chủ Cộng hòa do Tổng thống Phác lãnh đạo sẽ thuộc vào loại chính đảng ưu thế của các nước đang phát triển, nghĩa là chính phủ và đảng cầm quyền cố tạo ảnh hưởng mạnh mẽ trong khi các đảng đối lập sẽ đắm chìm trong thất bại.
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.


[1] Tức Syngman Rhee (p&c)
[2] Tức Chang Myon (p&c)
[3] Tức Park Chung Hee ( p&c)
[4] Tức Lí Thừa Vãn (p&c)
[5] Tức Yun Bo-seon theo cách viết hiện nay (p&c)


Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Luật Hiến pháp và Chính trị học (15)

Xem các phần: (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14)


Nguyễn Văn Bông

THIÊN THỨ II: NHỮNG CHẾ ĐỘ CHUYÊN CHẾ

CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ NGA-SÔ
Khuôn mẫu của những chế độ quyền uy, chuyên chế, chế độ Nga-Sô đồng thời tự cho là chế độ dân chủ. Để hiểu rõ chế độ Nga-Sô, chúng ta lần lượt trình bày chủ nghĩa Mác-xít trước khi phân tích các định chế và vai trò của Đảng Cộng sản.
Mục I: CHỦ NGHĨA MÁC-XÍT

Chủ nghĩa Mác-xít thường được hiểu là một chủ nghĩa kinh tế. Hiểu như vậy không những là một điều lầm, mà còn khiến cho chủ nghĩa ấy trở nên khó hiểu. Thật ra chủ nghĩa Mác-xít là một triết lí, hay đúng hơn, một quan niệm toàn diện về con người và vũ trụ. Nó có một chủ thuyết về kinh tế, cũng như có một chủ thuyết về chính trị. Để có một ý niệm tổng quát về chủ nghĩa Mác-xít, chúng ta sẽ lần lượt xem căn bản triết lí, chủ thuyết kinh tế cùng chính trị.

Đoạn 1: CĂN BẢN TRIẾT LÍ
Về mặt triết lí, chủ nghĩa Mác-xít có 3 đặc tính: là một chủ nghĩa duy vật, biện chứng pháp và duy vật sử quan.
A. Ở đây ta không nên hiểu là một triết lí đạo đức giản tiện hay có mục đích đòi hỏi một vài quyền lợi vật chất. Duy vật có nghĩa là vật chất là động cơ căn bản, nghĩa là lấy sự thực và trạng thái của thực tế làm cơ bản và căn cứ; tinh thần và tư tưởng đều do các hiện tượng vật chất mà ra và là kết quả của các hiện tượng này. Hiểu như vậy chủ nghĩa duy vật phủ nhận luôn cả Thượng đế. Trên khía cạnh này, chủ nghĩa Mác-xít lấy lại một triết lí đã có từ lâu.

B. Chủ nghĩa Mác-xít là một chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác đã biến nó bằng cách lồng vào một hệ thống phương pháp luận, gọi là biện chứng pháp. Biện chứng pháp là một quan niệm về vũ trụ tiến hóa mà Mác mượn của Hegel. Học thuyết của Hegel chủ trương rằng với mọi sự vật trong vũ trụ, hễ có cái chính thì đồng thời cũng sanh ra cái phản, hai yếu tố này xung đột nhau và sinh ra yếu tố thứ ba là cái hợp. Hệ thống phương pháp luận này, Mác áp dụng vào vật chất. Theo Mác, tất cả sự vật đều chứa đựng những mâu thuẫn nội tại và chính những mâu thuẫn này thúc đẩy sự vận động và sự phát triển của các sự vật. Vì thế những sự vật khác nhau có những mâu thuẫn nội tại khác nhau; những nội tại khác nhau và những hình thức vận động và chiều hướng phát triển khác nhau. Tuy nhiên những mâu thuẫn này lại kết hợp với nhau chặt chẽ trong một khối thống nhất: sự tồn tại của một yếu tố là điều kiện tồn tại của một yếu tố khác, đồng thời sự thống nhất của sự vật mâu thuẫn cũng là điều kiện tồn tại của cả khối ấy. Nhưng những sự vật mâu thuẫn nhau vừa xung đột nhau, vừa đấu tranh nhau.
Và chính sự xung đột và đấu tranh lẫn nhau của những vật đối lập nội tại đó thúc đẩy sức vận động và phát triển của các sự vật. Như Lenin, nói «mâu thuẫn đấu tranh nhau tức là phát triển vậy.»
Tóm lại mọi hiện tượng, nhất là hiện tượng trong xã hội đều phát triển theo quá trình biện-chứng. Đấu tranh là điều kiện tất yếu của mọi tiến bộ.

C. Duy vật sử quan: tức là áp dụng triết lí duy vật vào xã hội loài người.
Theo thuyết này thì tất cả những hiện tượng thuộc về tinh thần tôn giáo, pháp luật, nghệ thuật, đều theo sự phát triển của những hiện tượng vật chất.
Mác đã nói: “Không phải ý thức loài người quyết định sinh hoạt loài người, mà trái lại, chính sinh hoạt loài người quyết định ý thức loài người.”
Nói một cách khác, không phải bởi vì ta tư tưởng như thế này mà ta sinh sống như thế này, mà chính bởi vì ta sinh sống như thế này cho nên ta mới tư tưởng như thế này.
Tuy nhiên, giữa các hoàn cảnh vật chất và các sự vật trong xã hội, yếu tố quyết định chính là kĩ thuật sản xuất. Các mối tương quan giữa người với nhau đều do kĩ thuật sản xuất ấn định. Khi có một kĩ thuật sản xuất mới thì hình thức xã hội lại đổi thay, như « thời đại dùng máy xay tay thì cả xã hội phong kiến, thời đại dùng máy hơi nước thì có chế độ tư bản kĩ nghệ ».

Cách mạng trong lịch sử thường là những hiện tượng phá hủy thượng tầng kiến trúc không còn thích hợp với thực trạng của quan hệ sản xuất. Thí dụ: Cách mạng Pháp năm 1789 đã thích ứng với một cải biến kĩ thuật về quan hệ sản xuất, đặt giai cấp tư sản lên hàng đầu trong cuộc sinh hoạt chính trị vì giai cấp này trở thành giai cấp kinh tế thống trị thời bấy giờ.

Như thế, yếu tố thiết yếu trong xã hội, hiện tượng thường xuyên và bất diệt, là giai cấp đấu tranh: giai cấp đấu tranh bao giờ cũng có, vì bất cứ trong xã hội nào, kĩ thuật sản xuất cũng đặt lại mối tương quan sản xuất và hậu quả là một giai cấp thống trị đối diện với một giai cấp bị bóc lột. Tiến bộ kĩ thuật cùng tiến hóa, giai cấp thống trị bám lấy quyền vị và trái lại, giai cấp bị bóc lột tiến mãi để trở thành giai cấp thống trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp lần lần tiêu diệt thượng tầng kiến trúc cũ đã hóa lỗi thời để thay thượng tầng kiến trúc mới.

Đoạn 2: CHỦ THUYẾT KINH TẾ

A. Căn bản của chủ thuyết kinh tế là: “giá trị lao động lực”. Mác cho rằng trong chế độ tư bản, những người lao động lấy sức lực của mình làm món hàng bán, nhà tư bản thì mua sức lao động của họ bằng một số tiền công nhất định. Trong một thời gian nhất định mà lao động làm việc cho tư bản, thì giờ của lao động dùng trong việc sản xuất thường nhiều hơn thì giờ phải làm việc để hưởng tiền công. Sức lao động làm việc để đổi lấy tiền công gọi là tất yếu lao động. Giá trị do thặng dư lao động này ra tức là thặng dư giá trị (ví dụ: một người thợ làm việc 10 giờ một ngày. Hãng kể 8 giờ làm việc là tất yếu lao động để trả lương mà người thợ ấy được hưởng, còn hai giờ làm việc kia là thặng dư giá trị mà nhà tư bản hưởng). Chính hiện tượng căn bản này gây mâu thuẫn ngày càng nhiều và càng sâu trong xã hội tư bản, khiến một ngày nhất định nào xã hội ấy sẽ biến đổi trở thành một xã hội tập sản chủ nghĩa trong đó tất cả cơ quan sản xuất đều là của chung của toàn thể xã hội. Tại sao?
B. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản là một điều tất yếu. Sự cạnh tranh ấy đưa đến hậu quả là những tiểu, trung tư bản gia bị đại tư bản gia thôn tính. Tư bản sẽ được tập trung trong tay một số ít nhà nhà tư bản lớn hợp thành bọn quả đầu kinh tế và biến những tiểu trung tư bản gia cũng như người sản xuất độc lập thành những người vô sản. Hàng ngũ những người bị bóc lột do đấy, ngày một trở nên thưa thớt. Mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản không cách nào giải quyết được. Hậu quả là một tình trạng hỗn độn, nạn thất nghiệp ngày càng tăng gia, nạn kinh thế khủng hoảng ngày càng trầm trọng, rồi trên phương diện bang giao quốc tế, mâu thuẫn giữa các tư bản khiến chiến tranh bùng nổ, khiến xã hội trở thành miếng mồi rất ngon cho công cuộc cách mạng tập sản vậy. Các mâu thuẫn trong chế độ tư bản chủ nghĩa đưa tới một kết quả tất nhiên: một khi kĩ thuật sản xuất đã trở thành công hữu, tập sản thì định chế pháp lí của chủ nghĩa tư bản, không còn lí do tồn tại nữa: người ta phải đi tới chỗ thủ tiêu quyền tư hữu đối với công cụ sản xuất.
Chủ nghĩa Mác-xít được xem là một chủ nghĩa khoa học khác với chủ nghĩa xã hội không tưởng hay lí tưởng. Cách mạng là chuyện tất yếu, nhưng cách mạng phát sinh không phải do ý muốn của dân chúng đòi hỏi hủy bỏ những bất công trong xã hội, mặc dù điều ấy cũng có thể đưa giai cấp vô sản tới hành động cách mạng. Nguyên nhân sâu xa và không thể tránh được của cách mạng chính thật nằm trong biến chuyển và tiến hóa của kĩ thuật và của quan hệ sản xuất.
Cách mạng phải hoàn thành bằng bạo lực, bởi vì “Bạo lực là người hộ sinh giúp đỡ cho mọi xã hội cũ trong cơn đau đẻ.”

Đoạn 3: CHỦ THUYẾT CHÍNH TRỊ

A. Nhà nước, một định chế phải suy tàn

Nhà nước trong chế độ tư bản, là một thượng tầng kiến trúc một ngày kia sẽ phải sụp đổ do phát triển của hạ tầng kiến trúc. Chính giai cấp cách mạng, khi ý thức đầy đủ vai trò của mình và đứng ra lãnh đạo cuộc giai cấp đấu tranh, sẽ giúp một tay vào sự sụp đổ trên. Vấn đề sử dụng phương tiện hòa bình hay bạo động, liên minh với thành phần này hay thành phần nọ, hành động hợp pháp hay bất hợp pháp, là một vấn đề chiến dịch và chiến thuật, tùy theo nhận định của tình trạng mỗi xứ.
Đoạn đường của một xã hội tư bản chủ nghĩa đi tới một xã hội cộng sản chủ nghĩa gồm ba giai đoạn:
1. Trong giai đoạn thứ nhất, sẽ thành lập chế độ độc tài vô sản hay vô sản chuyên chính. Vô sản chuyên chính, chỉ là một phương tiện, một giai đoạn trung gian giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Nó là một giai đoạn, trong đó, chỉ giai cấp vô sản được nắm chính quyền, hành xử chính quyền không chia sẻ với giai cấp khác và không thừa nhận các tự do cá nhân. Độc tài vô sản có phải là một chính thể dân chủ không? Lenin trả lời câu hỏi ấy như sau: “Độc tài vô sản nghĩa là có tổ chức tiền phong của giai cấp bị bóc lột trở nên giai cấp thống trị, có mục đích thủ tiêu bọn áp chế, không thể chỉ làm có việc nới rộng dân chủ. Đồng thời các việc nới rộng dân chủ lần đầu tiên cho các kẻ nghèo, thứ dân chủ cho nhân dân chứ không phải thứ dân chủ dành riêng cho bọn giàu sang, độc tài vô sản phải hạn chế tự do của bọn áp chế, của bọn bóc lột, của bọn tư bản. Đối với bọn này, ta phải đàn áp để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ làm công, phải đập tan sự chống đối của chúng bằng võ lực và cố nhiên khi đã đàn áp thì phải dùng tới võ lực và không nói đến chuyện tự do, dân chủ”. Lenin quả quyết rằng chỗ nào có độc tài là không có tự do. Nhưng trong chế độ độc tài vô sản, chỉ những kẻ bóc lột trước kia mới không có tự do.
2. Giai đoạn thứ hai, khi giai đoạn vô sản độc tài đã qua, là giai đoạn của chế độ cộng sản chân chính, mặc dầu chưa phải là giai đoạn cộng sản hoàn toàn và mới là giai đoạn hạ tầng của chủ nghĩa cộng sản. Một vài điểm thiết yếu của chủ nghĩa cộng sản trong giai đoạn này đã thực hiện được, như nạn người bóc lột người sẽ mất với sự hủy bỏ quyền tư hữu đối với các công cụ sản xuất. Song lí tưởng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản chưa hoàn toàn đạt được và nhất là thuyết bình đẳng cơ bản của chủ nghĩa “mỗi người hưởng theo nhu cầu” cũng chưa đạt được. Tại sao? Vì xã hội, ở giai đoạn này, vẫn còn mang nặng “tàn tích của xã hội cũ mà nó đã thoát thai ra”. Do đấy, vẫn còn có bất bình đẳng về tiền công và phần nào về địa vị trong xã hội, không còn giai cấp vì nạn người bóc lột người đã mất, nhưng các bất bình đẳng vẫn chưa tiễu trừ được.
Nhà nước tuy vẫn còn, song Nhà nước bây giờ dân chủ hơn Nhà nước tư bản chủ nghĩa gấp ngàn lần. Việc nhân dân hành xử tự do và các quyền chính trị bắt đầu có một ý nghĩa. Tuy nhiên chưa thể nói tới chuyện bãi bỏ Nhà nước: sự cần thiết của công cuộc sản xuất và các bất bình đẳng do tiền công gây ra bắt buộc phải duy trì một hệ thống cưỡng bách thì Nhà nước trước hết là một phương tiện cưỡng bách vậy.

3. Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn thượng tầng của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn huyền bí mà các lí thuyết gia Mác-xít đề cập mơ hồ. Bây giờ đã tới lúc có thể thay thế châm ngôn: “mỗi người làm theo nhu cầu”. Trong giai đoạn này, mức sản xuất đã lên tới một cao độ khiến các vấn đề phân phối sản phẩm không cần phải nêu lên nữa, và tâm lí con người cũng thay đổi khiến không cần phải dùng tới sự cưỡng bách trong cuộc tổ chức sản xuất, loài người sẽ quen với việc tuân giữ các quy tắc cơ bản trong cuộc sinh hoạt tập thể và sức lao động của họ sản xuất nhiều đến nỗi họ sẽ tình nguyện làm việc theo khả năng. Cái nhỡn tuyến hẹp-hòi của luật pháp tư sản buộc người ta phải tính toán, chặt chẽ “Tôi không dại gì làm nửa giờ nhiều hơn kẻ khác, tôi không dại gì làm công việc này vì công việc này ít lợi hơn công việc khác” sẽ được thay thế bằng một nhỡn tuyến bao la, vĩ đại hơn. Công việc phân phối sản phẩm cho các phần tử trong xã hội sẽ không còn cần phải có một hạn chế nào vì mỗi phần tử cần dùng bao nhiêu, cứ việc tự do mà lấy”.

Trong giai đoạn này Nhà nước sẽ không còn có lí do tồn tại. Ngay trong giai đoạn hạ tầng, khi mà tâm lí và tập quán con người cải biến theo hướng của chủ nghĩa cộng sản chỉ vạch, Nhà nước đã lần lần khuất đi và ngày càng suy yếu và sự suy yếu sẽ đưa tới chỗ tiêu hủy.
Nhà nước trở nên vô ích khi sản xuất và phân phối có thể tổ chức được một cách tự nhiên, không cần cưỡng bách.
Như vậy trong giai đoạn cuối cùng, sự phát triển chủ nghĩa cộng sản sẽ đưa tới một chế độ vô Chính phủ, nghĩa là bãi bỏ Nhà nước và mọi hệ thống cưỡng bách.
Giai đoạn chung kết này, bao giờ sẽ xuất hiện và sẽ xuất hiện ra sao? Không ai có thể trả lời. Song đối với người Mác-xít thì nó không phải là một ảo tưởng. Khi người ta bảo rằng giai đoạn chung kết còn tùy thuộc sự cải tiến sâu xa của con người, vì con người có cải tiến toàn diện thì giai đoạn cuối cùng của chế độ Cộng sản mới hi vọng thực hiện được, người Mác-xít trả lời: đó sẽ là kết quả của sự thành lập một xã hội cộng sản hay nói một cách khác, có thành lập một xã hội cộng sản thì rồi con người mới có cơ hội cải tiến được. Tâm lí và tư tưởng con người do những điều kiện khách quan của sinh hoạt điều khiển, nên tâm lí của họ rồi sẽ thay đổi rất sâu xa.

B. Ý nghĩa của tự do, dân chủ

Đối với con người Mác-xít, không có giá trị nào có thể gọi là tuyệt đối, vĩnh cửu, vô hạn cho tới khi hoàn thành cuộc cách mạng. Các ý niệm về pháp luật và đạo đức chỉ có một giá trị tương đối, bởi chỉ biểu diễn được quan niệm của một tầng lớp. Chỉ có xã hội không giai cấp, xã hội tập sản chủ nghĩa mới thể hiện được những lí tưởng tuyệt đối, có giá trị đối với hết mọi người. Những lí tưởng này là những lí tưởng có tính chất khoa học, nghĩa là có tính khách quan.

1. Tự do trong một xã hội mà các mối tương quan chính trị và hệ thống pháp lí và luân lí chỉ thể hiện những quan hệ bắt buộc giữa các giai cấp là một thứ tự do vô nghĩa.

Tự do chỉ là trò hề đối với giai cấp bị bóc lột, vì tự do chỉ ban cho họ những quyền trừu tượng thiếu hẳn nội dung cụ thể. Vì tự do không thể nào có những nơi mà quần chúng chưa ý thức được các quyết định ở ngoài ý chí ràng buộc họ. Con người giải phóng mới có tự do, và trước khi được giải phóng, con người không thể nào có tự do.
Tự do không thể nào có một giá trị tuyệt đối khi cách mạng chưa thực hiện xong một xã hội không giai cấp. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1789 chỉ biểu hiện một giai đoạn của lịch sử, giai đoạn hưng khởi của giai cấp tư sản mà thôi.
Ý thức như thế thì các định chế trong một xã hội tư bản chủ nghĩa nếu có giá trị, thì chỉ là giá trị một giai đoạn dẫn tới cuộc giải phóng tương lai. Những gì giúp cho cuộc giải phóng ấy mau tiến tới đều là tốt cả, nên một chế độ độc tài chuyên chế, có thể hữu ích nếu chế độ ấy giúp được cho công cuộc giải phóng nói trên, đó là trường hợp chế độ độc tài vô sản. Chỉ có cái tự do ngày mai, cái tự do chân thật và chung quyết mới là quyết định. Cái tự do ngày nay chưa phải là cái tự do chân chính và tuyệt đối, nên không cần lưu tâm cho lắm làm gì.

2. Dân chủ thực sự cũng chỉ có thể thực hiện trong một xã hội không giai cấp. Trong một xã hội tư bản chủ nghĩa, dân chủ chỉ là một công cụ đàn áp của giai cấp thống trị. “Dân chủ trong chế độ tư bản chủ nghĩa bao giờ cũng bị lồng trong một cái khung bóc lột hết sức chật hẹp của bọn tư bản và vì vậy mà bao giờ cũng chỉ là dân chủ của bọn thiểu số, của kẻ giàu sang, của giai cấp hữu sản. Người ta ban phép cho những kẻ bị áp chế mấy năm một lần được cử một số người của giai cấp thống trị ra làm đại biểu cho họ và luôn thể đặt cái ách thống trị lên trên đầu họ”.
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng giai cấp công nhân không thể lợi dụng chế độ dân chủ tư bản chủ nghĩa kiểu cổ điển để làm một lợi khí cho cách mạng. Giai cấp công nhân phải biết tham gia những cuộc liên minh “chiến thuật” tạm thời với các phần tử tư sản và không thể để mình mắc cái bệnh ấu trĩ cộng sản chủ nghĩa mà bị cô lập. Dù sao dân chủ cổ điển của xã hội tư bản cũng là một bước tiến, một giai đoạn cần thiết và là con đường ngắn nhất để tiến đến độc tài vô sản.
Tóm lại, cũng như đối với sự tự do, dân chủ chỉ có nghĩa sau khi hoàn thành cuộc cách mạng. Còn từ nay đến đó, dân chủ chỉ tiêu biểu một giai đoạn lịch sử với một giá trị tương đối mà thôi.

Mục II: NHỮNG ĐỊNH CHẾ CHÍNH TRỊ NGA SÔ
Những định chế chính trị Nga-Sô không những liên hệ mật thiết đến chủ nghĩa Mác-xít mà còn gắn liền với lịch sử chính trị, tuy tương đối ngắn nhưng rất sôi nổi. Bởi thế, trước khi đi sâu vào các cơ quan công quyền, thiết tưởng nên tóm lược một vài nét chính của lịch sử Nga-Sô.
Đoạn 1: TÓM TẮT LỊCH SỬ

A. Một vài sự kiện lịch sử
Thiết lập được gần 50 năm chính thể Xô-viết đã có một lịch sử chính trị rất phong phú.
1917: bởi nhiều nguyên do mà nguyên do chính là tình thế quân sự, Nga hoàng thoái vị. Một chính thể lâm thời lập nên. Đồng thời, những Xô-viết công nhân, binh sĩ cũng được tổ chức mỗi ngày một nhiều. Lenin, trở về Nga ngày 16-4-1917, ông là lãnh tụ Đảng “Bôn-sê-vik”, đảng này lần lần nắm cả quyền bính trong Ủy ban Chấp hành Trung ương Xô-viết. Nhờ hành động đúng vào lúc nguyện vọng hòa bình tha thiết của quần chúng Nga, bấy giờ đang có chiến tranh với Đức, Lenin với hai khẩu hiệu: Hòa bình tức khắc và Đất về nông dân đã lật được Chính phủ lâm thời và vị nguyên thủ Kerenski và thực hiện được cuộc Cách mạng tháng Mười.
Rồi Đại hội Xô-viết công bố trao chủ quyền Nhà nước cho các ủy viên nhân dân, trong số có hai yếu nhân đáng chú ý là Lenin và Trotsky. Và Hòa ước Nga-Đức kí kết xong ngày 3-3-1918 tại Brest-Litovsk.
Mặc dầu chiến tranh bên ngoài đã kết thúc, cuộc nội chiến ngày càng rối rắm do sự can thiệp của Đồng minh. Chính thời kỳ này là thời kỳ ban hành Hiến pháp mùng 10 tháng 8 năm 1918 và khởi đầu chế độ cộng sản thời chiến tranh.
1921: khi nội chiến kết thúc, nước Nga bị đặt trước một tình trạng chính trị và kinh tế rất trầm trọng. Lenin, bởi biết rằng “khi hoàn cảnh đổi thay thì phải đổi thay phương pháp” liền bỏ chính sách xã hội chủ nghĩa cứng rắn vẫn thi hành từ trước và mở một kỉ nguyên mới gọi là kỉ nguyên chính trị và kinh tế mới.
Chính giữa lúc ấy, ngôi sao của Stalin bắt đầu tỏ rạng: ông được cử làm bí thư Đảng Cộng sản năm 1922. Ngày 30-10-1922, Hiến pháp Liên bang thứ nhất đã được đại hội Xô-viết Liên bang thông qua, sau khi sửa chữa một vài điều khoản và được công bố ngày 31-1-1924. Hiến pháp này thực ra chưa được hoàn toàn dân chủ, song đó là vì còn đang ở trong thời kỳ vô sản độc tài, Hiến pháp phải trù liệu những biện pháp tiến hành việc giáo dục quần chúng và tiêu trừ triệt để những kẻ thù của chế độ.
1924: Lenin mất. Sau đó xẩy ra cuộc giành quyền giữa Trotsky và Stalin. Mặc dầu được nhiều uy thế và có công lớn với cách mạng, Trotsky lần lần bị thải trừ và bao nhiêu quyền bính đều lọt vào tay Stalin, tuy bấy giờ ông này chính thức, mới chỉ là Tổng Bí thư trung ương đảng bộ – Chủ trương của Stalin cố nhiên cùng thắng với ông. Đó là chủ trương xây dựng “Xã hội chủ nghĩa trong một nước” trước đã, đối lập với chủ trương của Trotsky muốn gây “cách mạng thường trực trong khắp hoàn cầu”.
Bấy giờ chính là thời kỳ phát động những kế hoạch năm năm có mục đích trang bị cho nước Nga về phương diện kĩ nghệ hiện đang thua sút các nước khác rất nhiều, tập thể hóa kinh tế nông thôn.
Những năm sau, chương trình trên vẫn được xúc tiến đều, cho tới khi Hitler lên nắm chính quyền tại Đức thì chương trình lại lần lần ngả về kinh tế chiến tranh.
1936: Hiến pháp hiện đương thi hành được biểu quyết và ban hành cho mãi tới ngày 26-12-55 mới do Xô-viết tối cao Liên Sô (khóa thứ bốn) sửa đổi và bổ sung.
Vậy bản Hiến pháp hiện hành tại Liên Sô chính là bản Hiến pháp năm 1936 đã sửa đổi và bổ sung ngày 26 tháng 12 năm 1955 vậy.
B. Nhận định
Xã hội Liên Sô ngày nay không còn giai cấp nữa hiểu theo nghĩa giai cấp của cộng sản. Liên Sô là một “Nhà nước xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân”. Tuy nhiên, đó chỉ mới là “giai đoạn hạ tầng” của chủ nghĩa cộng sản và từ giai đoạn ấy bước sang “giai đoạn thượng tầng”, con đường còn thấy rất xa. Thật vậy, ta có thể nói mà không sợ cải chính rằng con đường từ “giai đoạn hạ tầng” bước sang “giai đoạn thượng tầng” còn sẽ kéo dài ra mãi. Tại sao?
1. Cuộc cách mạng thiết lập độc tài vô sản đã xảy ra tại một nước vốn còn đang ở trong thời kỳ rất lạc hậu về phương diện kĩ thuật là nước Nga năm 1917. Bởi vậy tất cả vấn đề đặt cho nước Nga khi ấy, cũng như bây giờ, là phải động viên toàn lực để trang bị cho nước được cường thịnh về mặt kĩ nghệ và canh nông, điều mà theo lí thuyết của Mác, có thể tránh được, nếu cuộc cách mạng xảy ra tại một nước đã được kĩ nghệ hóa tới một mức cao. Stalin đã hành động đúng, khi ông đặt những kế hoạch 5 năm. Song những kế họach ấy muốn hoàn thành, tự nhiên cần phải duy trì một bộ máy Nhà nước vĩ đại để đôn đốc và kiểm soát. Nhưng duy trì một bộ máy Nhà nước như vậy tức là đi ngược với chủ trương làm “suy yếu Nhà nước” của Chủ nghĩa Mác-Lenin.
2. Trong giai đoạn hiện tại, Liên Sô chọn con đường “chủ nghĩa xã hội trong một nước trước đã” của Stalin chống lại với con đường của Trotsky.
Như thế thì tất nhiên Liên Sô phải chú ý nhiều đến việc nuôi sống dân trong một hoàn cảnh quốc tế khá tế nhị gồm những nước tư bản chủ nghĩa bao giờ cũng là thù địch của mình. Tâm trạng bị bao vây là tâm trạng có thật của các nhà lãnh đạo Nga. Liên Sô còn phải trù liệu, chẳng những từ trước mà nhất là ngày nay một bộ máy quân sự khổng lồ. Tất cả những yếu tố này đều chống lại chủ trương làm “suy yếu Nhà nước”.
Và như thế “bộ máy Nhà nước” không những vẫn còn mà lại được tăng cường, độc tài vô sản vẫn tiếp tục ngự trị cho đến một ngày vô định…

Đoạn 2: NHÀ NƯỚC NGA SÔ
Nga-Sô là một quốc gia Liên bang với một tổ chức chính quyền khá đặc biệt.
A. Chế độ Liên bang

Liên bang Cộng hòa Xã hội Xô-viết, danh hiệu này nói lên một số đặc điểm của giải pháp Xô-viết về mối tương quan giữa Quốc dân và Nhà nước.

1. Liên Sô là một Nhà nước Liên bang. Chế độ Liên bang gồm nhiều cấp bực. Liên Sô là Liên bang các nước Cộng hòa Xô-viết, song các nước Cộng hòa Liên minh này có thể trở thành những Nhà nước Liên bang và tập hợp những nước Cộng hòa Xô-viết tự trị lại. Thí dụ, một trong những nước Cộng hòa Liên minh quan trọng nhất là Cộng hòa Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô-viết Nga gồm 15 nước Cộng hòa tự trị: Talari, Mongoli…[1]
Ngoài ra, lại có những quận “tự trị” những vùng tự trị. Tóm lại, trong Liên bang Xô-viết, chúng ta tìm thấy: Cộng hòa Xô-viết liên minh, Cộng hòa tự trị, Vùng tự trị, Quận tự trị.

2. Sự phân quyền giữa Liên bang và các Tiểu bang còn có một ý nghĩa quan trọng khác. Do đạo luật sửa đổi ngày 1-2-1944, mỗi nước Cộng hòa liên minh có quyền ngoại giao nghĩa là quyền trực tiếp giao thiệp với các nước ngoài, kí hiệp ước trao đổi đại diện ngoại giao và lãnh sự với các nước ấy. Bởi thế, tại Liên hiệp quốc, ngoại đại diện của Liên Sô, còn có đại diện của Cộng hòa liên minh Nga và Cộng hòa liên minh Ukraine nữa.

Ngoài thẩm quyền dành riêng cho Liên bang, mỗi Cộng hòa Liên minh có một sự tự trị nội bộ khá rộng rãi (Hiến pháp, Lập pháp, Hành chính, quân đội riêng) và quyền tự do rút khỏi Liên bang bất cứ lúc nào.

3. Trên phương diện pháp lí, đặc điểm thứ ba của Liên bang Nga-Sô là không căn cứ trên nền tảng lãnh thổ và dân tộc: nghĩa là Liên bang mở ra cho mọi nước Cộng hòa xã hội Xô-viết, mặc dầu ở đâu và thuộc chủng tộc nào. Sự gia nhập Liên bang Nga-Sô dễ dàng như thế.
Với những đặc tính ấy, các phát ngôn viên của Liên Sô thường ngày vẫn lớn tiếng ca ngợi chế độ Liên bang Xô-viết cho rằng đó là Liên bang rộng rãi hơn chế độ Liên bang cổ điển nhiều. Vì Liên Sô kết tập được cả những dân tộc bị trị và làm thành một khối tuyệt đối tự do. Liên Sô cho rằng chính họ đã tìm được một phương thức liên minh mới và giải quyết được các vấn đề cũ kĩ từ xưa chưa ai giải quyết được là vấn đề “quốc tính” của mỗi dân tộc. Hiện nay có hơn một trăm quốc tính khác nhau sinh hoạt trên lãnh thổ Liên Sô. Tuy nhiên, những người chỉ trích thường đáp lại rằng điều mà Liên Sô tự hào là tự do rộng rãi đó, chỉ là cái vỏ ngoài. Thật ra, mỗi thống nhất thật tại Liên Sô hoàn toàn do đảng Cộng sản nắm giữ và những cái gọi là cơ quan liên minh đều ở dưới quyền hành duy nhất và trực tiếp của Đảng này.
B. Tổ chức chính quyền
Để có một ý niệm tổng quát về tổ chức chính quyền tại Liên Sô, chúng ta sẽ lần lượt phân tích những cơ quan công quyền cùng vấn đề phân phối thẩm quyền giữa các cơ quan.

1. Những cơ quan công quyền
Các cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước Liên bang gồm có: Xô-viết tối cao, Chủ tịch đoàn, Hội đồng Bộ trưởng.
a. Xô-viết tối cao: là “cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước Liên Sô” gồm hai viện: Xô-viết Liên bang và Xô-viết dân tộc. Chế độ lưỡng viện này là hậu quả tất nhiên của chế độ Liên bang, vì Xô-viết Liên bang đại diện toàn thể công dân Liên Sô (cứ 300.000 dân thì bầu một đại biểu). Còn Xô-viết dân tộc do công dân Liên Sô ở trong các nước cộng hòa liên minh và tự trị, những tỉnh tự trị và quận dân tộc bầu ra, mỗi nước Cộng hòa liên minh 25 đại biểu, mỗi nước Cộng hòa tự trị 11 đại biểu, mỗi tỉnh tự trị 5 đại biểu và mỗi quận tự trị 1 đại biểu.
Hai viện trong Xô-viết tối cao đều ngang quyền nhau.
Nhiệm kì của cả hai viện cùng là 4 năm. Hai viện cũng có sáng quyền lập pháp. Một dự án luật chỉ được xem là đạo luật sau khi được mỗi viện thông qua bằng đa số tương đối. Mỗi viện bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch. Những cuộc họp chung của hai viện trong Xô-viết tối cao Liên Sô do Chủ tịch Xô-viết Liên bang và Chủ tịch Xô-viết dân tộc thay phiên nhau chủ tọa.
Xô-viết tối cao họp mỗi năm hai lần do Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao triệu tập. Những kỳ họp bất thường do Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao tự ý triệu tập hoặc theo yêu cầu của một trong các nước cộng hòa liên minh.
Trong trường hợp có sự bất đồng ý kiến giữa Xô-viết Liên bang và Xô-viết dân tộc thì vấn đề sẽ đưa ra trước một hội đồng hòa giải do hai viện lập ra.
Nếu hội đồng hòa giải không đưa tới kết quả thỏa đáng thì vấn đề sẽ đưa ra xét lại lần thứ hai ở từng viện: Nếu sự bất đồng ý kiến giữa hai viện không giải quyết được thì Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao giải tán Xô-viết tối cao và ấn định tuyển cử mới.
b. Chủ tịch đoàn – là một cơ quan rất đặc biệt về thành phần cũng như về quyền hành, do Xô-viết tối cao bầu ra trong cuộc họp chung của hai viện và gồm: Chủ tịch Chủ tịch đoàn, 15 Phó Chủ tịch, Bí thư Chủ tịch đoàn và 20 ủy viên, cộng lại là 37 nhân viên hợp thành một nghị hội nhỏ.
Ủy ban thường vụ của Xô-viết tối cao giữa hai khóa họp không quá mười ngày. Các nhiệm vụ của Chủ tịch đoàn có thể được phân tích như sau:
·         Triệu tập các khóa họp thường và bất thường của Xô-viết tối cao
·         Ban hành các đạo luật, sắc lệnh
·         Giải thích các đạo luật và hủy bỏ những nghị định và quyết định xét không phù hợp với luật pháp
·         Giải tán Xô-viết tối cao
·         Tổ chức trưng cầu dân ý
·         Cách chức và chỉ định một số Tổng trưởng theo đề nghị của hội đồng Tổng trưởng
·         Phê chuẩn các hiệp ước quốc tế
·         Tuyên bố tình trạng chiến tranh
·         Ra lệnh tổng động viên.
Với những nhiệm vụ vừa kể ta có thể nói rằng Chủ tịch đoàn nắm quyền lãnh đạo thực sự và trên phương diện pháp lí, đây là một chế độ Hội đồng.
c. Hội đồng Tổng trưởng – là Chính phủ Liên Sô do Xô-viết tối cao Liên Sô lập ra trong cuộc họp chung hai viện. Theo Hiến pháp, thành phần của hội đồng này không phải chỉ gồm có Bộ trưởng, mà còn có một số chuyên viên như:

·         Chủ tịch ủy ban kế hoạch dài hạn kinh tế quốc dân
·         Chủ nhiệm ủy ban kế hoạch ngắn hạn kinh tế quốc dân
·         Chủ tịch ủy ban công an của Nhà nước
·         Chủ tịch ban Giám đốc Ngân hàng quốc gia v.v…

Có hai điều đáng lưu ý về tính chất các Bộ của Liên Sô. Trước hết, trong các Bộ này, có những Bộ gọi là Bộ Liên bang và có những Bộ gọi là Bộ Liên bang Cộng hòa. Các Bộ Liên bang điều khiển ngành hành chính Nhà nước trên toàn lãnh thổ Liên Sô, do từng Bộ phụ trách, hoặc trực tiếp bằng những cơ quan do Bộ chỉ định. Còn các Bộ Liên bang Cộng hòa điều khiển ngành hành chính Nhà nước do mình phụ trách bằng cách gián tiếp qua các Bộ sở quan của nước cộng hòa liên minh và chỉ điều khiển trực tiếp một số xí nghiệp nhất định và có hạn, theo một danh sách đã được Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao duyệt.

2. Vấn đề phân phối chính quyền: Qua sự phân tích trên ta thấy Xô-viết tối cao chẳng qua cũng chỉ là một Nghị viện của các nước Tây phương, Hội đồng Tổng trưởng là một Chính phủ, và Chủ tịch đoàn là một thứ Quốc trưởng đoàn. Sự thật phức tạp hơn thế nhiều, và muốn hiểu rõ các định chế của Liên Sô, chúng ta nên lưu ý đến cách thức phân phối thẩm quyền đặc biệt.
a. Trước nhất có một sự khác biệt giữa các “cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước” và các “cơ quan hành chính Nhà nước”.
Cơ quan cao cấp của chính quyền Nhà nước là Xô-viết tối cao và Chủ tịch đoàn, cơ quan, đại biểu thường trực của Xô-viết tối cao.
Trái lại, Hội đồng Tổng trưởng chỉ là “cơ quan Hành pháp và hành chính của chính quyền Nhà nước Liên Sô”.
b. Sự lệ thuộc của những cơ quan hạ cấp đối với những cơ quan thượng cấp
Trước hết các đại biểu lệ thuộc cử tri vì họ có quyền bãi miễn bất cứ lúc nào, bằng quyết nghị của đa số.
Xô-viết tối cao tấn phong Chủ tịch đoàn, và Hội đồng Tổng trưởng. Hội đồng Tổng trưởng chịu trách nhiệm trước Xô-viết tối cao và trong khoảng thời gian giữa các khóa họp của Xô-viết tối cao, trước Chủ tịch đoàn. Chủ tịch đoàn chịu trách nhiệm trước Xô-viết tối cao, vì Chủ tịch đoàn chỉ là một cơ quan đại biểu thường trực của Xô-viết tối cao và vì Chủ tịch đoàn phải “báo cáo mọi hoạt động của mình trước Xô-viết tối cao”.
c. Không có một sự phân chia rõ rệt quyền Lập pháp và Hành pháp. Chiếu theo Hiến pháp, Xô-viết tối cao có quyền Lập pháp và mọi thẩm quyền Liên bang nào không thuộc thẩm quyền các Tiểu bang. Các Tổng trưởng có quyền hành chính và chấp hành Lập pháp, nghĩa là quyền Hành pháp của các nước Tây phương vậy. Sự phân biệt trên đây có thể nói là tương đối rõ rệt, nhưng khi nói đến chức trưởng của Chủ tịch đoàn, ta mới thấy những điều phức tạp.

Trước hết, một số nhiệm vụ của Xô-viết tối cao được trao cho Chủ tịch đoàn trong khoảng thời gian giữa các khóa họp và, vì thế, tư cách đại biểu thường trực Xô-viết tối cao Chủ tịch đoàn biểu hiện thực rõ rệt. Quyền kiểm soát của Chủ tịch đoàn đối với các Bộ trưởng, quyền chỉ định hay cách chức và quyền tuyên bố tình trạng chiến tranh, cũng biểu hiện rõ rệt. Sau nữa những chức trưởng khác của Chủ tịch đoàn mà điều 49 của Hiến pháp liệt kê rất dài đều là những thẩm quyền mà tại các nước Tây-phương người ta thường trao hoặc cho Nghị viện hoặc cho Chính phủ, tùy theo chế độ coi trọng uy quyền của Nghị viện hay của Chính phủ. Điều cần lưu ý là trong khi Xô-viết tối cao nắm quyền Lập pháp và hội đồng Bộ trưởng có những nghị định và quyết định trên căn bản đạo luật hiện hành, thì Chủ tịch đoàn lại có những “sắc lệnh”.
Cái hệ thống pháp lí này (đạo luật, sắc lệnh, nghị định) thật ra trong nhiều nước khác cũng có, nhưng ở Nga-Sô lại có một ý nghĩa khác biệt; các sắc lệnh Xô-viết là quyết định của cơ quan thường trực Quốc hội có tính chất của đạo luật. Sau hết, trong số thẩm quyền của Chủ tịch đoàn có một số quyền thuộc loại giải thích các đạo luật, hủy bỏ những nghị định, và quyết định không phù hợp với luật pháp.
Trong điều kiện ấy Chủ tịch đoàn, là cơ quan đặc biệt nhất của Hiến pháp Xô-viết. Vừa là Quốc trưởng đoàn được nhiều quyền hành rất rộng rãi, vừa là cơ quan đại biểu thường trực của một Quốc hội dân cử.
Sở dĩ như thế là vì ý niệm phân quyền không được áp dụng và được xem là trái nghịch với tinh thần của chế độ. Hội đồng Tổng trưởng về mặt pháp lí bị đặt trên một bình diện thấp kém, vì tất cả quyền hạn chỉ là những quyền hạn thi hành luật pháp và hành chính thường ngày. Ngoài ra, Hội đồng Bộ trưởng còn bị phụ thuộc chặt chẽ vào Xô-viết tối cao và giữa các khóa họp vào Chủ tịch đoàn, cả về mặt đề cử lẫn về mặt trách nhiệm. Hội đồng Tổng trưởng Liên Sô không có sự độc lập của quyền Hành pháp trong chế độ Tổng thống và cũng không có những phương tiện áp lực đối với Quốc hội như trong chế độ Nghị viện.

Mục III: ĐẢNG CỘNG SẢN
Điều 126 Hiến pháp Nga-Sô:
«Những người công dân hoạt động nhất và giác ngộ nhất thuộc giai cấp công nhân, nông dân lao động và lao động trí thức tự do kết hợp cùng nhau trong Đảng Cộng sản Liên Sô, một đội tiền phong của những người lao động trong cuộc tranh đấu để xây dựng xã hội cộng sản và một khối lãnh đạo của mọi tổ chức của người lao động, cũng như mọi tổ chức xã hội và tổ chức Nhà nước.»
Như thế, Đảng Cộng sản là một định chế tối quan trọng của sinh hoạt chính trị Nga-Sô. Chúng ta sẽ lần lượt phân tích đặc tính, tổ chức cùng vai trò của «đội tiền phong» này.

Đoạn 1: ĐẶC TÍNH VÀ TỔ CHỨC ĐẢNG CỘNG SẢN

A. Đặc tính
1. Đảng Cộng sản là một độc đảng.
Tính cách này không những không giấu kín mà chính nhà cầm quyền Nga-Sô còn nêu lên như một đặc điểm quan trọng của chế độ. Theo lí luận Mác-xít, tính cách thuần nhất của chính đảng cùng tính cách duy nhất của chính đảng là hậu quả tất nhiên của tình trạng không còn giai cấp xã hội đấu tranh nữa vì lẽ rằng chính đảng chỉ là tổ chức chính trị của một giai cấp xã hội. Khi mà không còn giai cấp nữa, khi mà trong một cộng đồng xã hội chủ nghĩa chỉ còn một sự khác biệt nho nhỏ giữa những từng lớp xã hội, thì không thể nào có nhiều chính đảng chống đối nhau. Chỗ nào không có giai cấp đấu tranh, chỗ ấy không thể có nhiều chính đảng.
Tính cách đơn độc này là một đặc điểm thứ nhất tối quan trọng. Hậu quả – chúng ta sẽ thấy  – là làm đảo lộn tất cả khía cạnh của tổ chức chính quyền.
2. Thành phần được chọn lọc.
Đặc tính thứ hai là Đảng Cộng sản gồm những phần tử ưu tú được chọn lọc, trên nguyên tắc phải là những «công dân hoạt động nhất và ý thức nhất». Nhìn lại lịch sử mặc dù con số đảng viên càng ngày càng tăng – từ 240.000 năm 1917 đến 10 triệu 1964 – mặc dù thế, những điều kiện gia nhập Đảng rất là khắt khe. Muốn gia nhập Đảng Cộng sản:

·         Ứng viên phải được ba đảng viên gia nhập đảng ít nhất trong ba năm giới thiệu;
·         Quyết định cho gia nhập do tiểu tổ và chi bộ cấp quận hay đô thị phê chuẩn ;
·         Ứng viên phải qua một thời kỳ tập sự là một năm. Sau một năm tiểu tổ và chi bộ xét lại và quyết định coi ứng viên có xứng đáng là đảng viên của Đảng Cộng sản.
Cần phải nhấn mạnh rằng song song với sự chọn lọc này, tính cách giai cấp của Đảng luôn luôn được chú ý: nghĩa là những phần tử ưu tú từng ở giai cấp công nhân, nông dân lao động.
B. Tổ chức

Chiếu theo điều lệ, Đảng Cộng sản Sô-Viết được tổ chức «theo thể thức phân phối sản xuất và theo sự phân chia của lãnh thổ». Bởi thế cho nên, những tiểu tổ, ở cấp dưới có thể thành hình theo những tiêu chuẩn nghề nghiệp hay địa dư. Nghĩa là có thể có tiểu tổ của một xí nghiệp, một hãng, một xưởng, có thể có tiểu tổ của một vùng họp thành một chi bộ;tất cả các chi bộ của các vùng trong một Cộng hòa họp thành «đảng» của Cộng hòa. Và tất cả các Liên bang họp thành Đảng Cộng sản Liên Sô.

Các cơ cấu tổ chức, ở mọi cấp, đều giống nhau: Thường thường có một hội đồng gồm tất cả các đảng viên. Hội đồng không thể luôn luôn nhóm họp, một Ủy ban Chấp hành được bầu lên để đảm nhiệm sự liên tục. Và một Tòa thơ kí văn phòng đảm nhiệm công việc thường ngày.
Nguyên tắc liên lạc chiều dọc: Những tiểu tổ, hay chi bộ cùng một cấp không có liên lạc với nhau, luôn luôn liên lạc với cấp trên và chỉ biết hoạt động của tổ chức khác qua sự trung gian của cấp trên.
Cho đến tháng 11 năm 1952, các cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Nga-Sô gồm có:
·         Một đại hội (3 năm họp 1 lần);
·         Một ủy ban trung ương, cơ quan tối cao của Đảng trong khoảng thời gian Đại hội (do đại hội bầu ra);
·         Một văn phòng tổ chức (do ủy ban trung ương bầu ra);
·         Một văn phòng chính trị (do ủy ban trung ương bầu ra);
·         Một ủy ban kiểm soát (do ủy ban trung ương bầu ra);

Đại hội lần thứ 19 năm 1952 đã quyết định cải tổ cơ cấu nói trên. Văn phòng tổ chức và văn phòng chính trị được sáp nhập lại và cơ quan mới được gọi là Chủ tịch đoàn của ủy ban Trung ương và gồm một số đông nhân viên (25 thay vì 10 lúc trước); tuy nhiên sau khi Stalin chết (5.3.1953) lại cải tổ nữa: Chủ tịch đoàn của ủy ban Trung ương vẫn giữ nguyên nhưng thành phần lại thu hẹp lại còn 10 nhân viên. Nghĩa là trở lại thời kỳ trước 1952. Bãi bỏ chức vụ Tổng Thư kí. Nhưng thực tế cho thấy Khrushchev đã lần lần cầm quyền thực sự không kém Stalin với danh nghĩa «đệ nhất Thư kí», tóm lại:

·         Ủy ban trung ương gồm có 133 nhân viên thực thụ và 122 dự khuyết;
·         Chủ tịch đoàn 14 nhân viên thực thụ và 9 dự khuyết;
·         Văn phòng 9 nhân viên.
Tuy nhiên, Đại hội lần thứ 23 của Đảng Cộng Sản Nga Sô ngày 29-3-1964 lại cải tổ một lần nữa: chức vụ Tổng thư kí được tái lập và chủ tịch đoàn trở thành Văn phòng chính trị.

Đoạn 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN

Điều khoản 126 «Đảng Cộng sản là một đội tiền phong của những người lao động trong cuộc tranh đấu xây dựng xã hội cộng sản, và là một khối lãnh đạo của mọi tổ chức trong quốc gia ».
Xuyên qua vai trò của Đảng Cộng sản, chúng ta còn thấy rõ thực tế chính trị của một nước Cộng sản.
A. Đảng Cộng sản và Nhà nước Nga-Sô
Không có ai chối cãi rằng vai trò của Đảng Cộng sản trong Nhà nước Nga-Sô có một tầm quan trọng đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ là, trọng tâm sinh hoạt chính trị không phải ở Xô-viết tối cao, cũng không phải ở Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao, hay Hội đồng Tổng trưởng, mà chính ngay ở tại Đảng Cộng sản. Cần phải nhấn mạnh rằng Đảng điều khiển và chi phối cuộc sinh hoạt chính trị tại Nga-Sô. Những đạo luật mà Xô-viết tối cao chấp thuận hay là những quyết định của Hội đồng Tổng trưởng đều được thảo luận và chấp thuận trước tại cơ quan Trung ương của Đảng.
Tầm quan trọng của Chủ tịch đoàn Xô-viết tối cao hay Hội đồng Tổng trưởng không phải vì đó là trọng tâm sinh hoạt chính trị mà trái lại vì trong những cơ quan này hay là đứng đầu những cơ quan này có những nhân vật của Đảng. Trường hợp điển hình là Stalin đã từng là Tổng Thư kí của Đảng và Thủ tướng Chính phủ và Krushchev mới đây mới là Đệ nhất Thư kí và là Thủ tướng Chính phủ.
Tóm lại, trọng tâm sinh hoạt chính trị tại Nga-Sô không phải nằm trong những cơ quan công quyền mà trái lại ngay ở Đảng Cộng sản. Vì Nhà nước – theo chủ nghĩa Mác-xít – chỉ là thượng tầng kiến trúc không quan trọng – trái lại Đảng Cộng sản mới là đội tiền phong của cuộc xây dựng xã hội cộng sản và khối lãnh đạo của mọi tổ chức.
B. Đảng Cộng sản và bầu cử
Bầu cử ở Nga-Sô chỉ có tính cách hình thức. Đảng Cộng sản là đảng duy nhất tại Nga-Sô, sự hiện diện này đưa đến hai hậu quả quan trọng liên quan đến vấn đề bầu cử: đó là ứng cử viên duy nhất và tính cách phê chuẩn của cuộc đầu phiếu. Không có sự cạnh tranh giữa ứng cử viên. Không có sự chọn lựa của cử tri đoàn.
Trên nguyên tắc, thể thức đầu phiếu là đầu phiếu đa số với hai vòng. Nhưng trong thực tế, một danh sách duy nhất được đề nghị cho cử tri và danh sách này thường được phê chuẩn đến 99%. Tuy nhiên, điều cần lưu ý và đây là đặc điểm của chế độ tuyển cử ở Nga-Sô là sự thiết lập danh sách duy nhất ấy. Chính giai đoạn thiết lập danh sách mới là giai đoạn quan trọng trong thực tế chính trị.
Thật vậy, trước ngày bầu cử chính thức, có nhiều cuộc bầu cử sơ bộ mà mục tiêu là tuyển lựa ứng cử viên sẽ có tên trong danh sách chính thức. Đảng Cộng sản cũng như nhiều đoàn thể xã hội (nghiệp đoàn, xí nghiệp hợp tác xã, tổ chức thanh niên, tổ chức văn hóa v.v…) tất cả đều có quyền đề nghị ứng cử viên trong đơn vị tuyển cử. Trong các cuộc hội họp tuyển lựa sơ bộ này người ta có thể nêu lên hai đặc điểm:
·         Không có cuộc tranh luận về chính sách, về ý thức hệ;
·         Trái lại có cuộc bàn cãi sôi nổi về những nhân vật được đề nghị: khả năng, tác phong, uy tín để phụng sự cho lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt thời gian tiền tuyển cử này, Đảng Cộng sản luôn luôn có mặt và kiểm soát chặt chẽ. Và cũng suốt trong thời gian này chúng ta có thể nói cử tri Nga-Sô không có một chút tự do nào.
Tóm lại có hai giai đoạn:
·         Giai đoạn thực tế: tuyển lựa ứng cử viên vào danh sách duy nhất;
·         Giai đoạn chính thức: toàn thể cử tri bầu danh sách duy nhất ấy.

C. Đảng Cộng sản và cuộc sinh hoạt trong quốc gia
Trong Liên bang Cộng hòa xã hội Xô-viết, không ai chối cãi rằng Đảng Cộng sản chi phối mọi hoạt động quốc gia. Nghĩa là Đảng Cộng sản độc quyền điều khiển không những lĩnh vực chính trị, mà còn luôn cả lĩnh vực ý thức hệ, xã hội, văn hóa.
Trong cuộc sinh hoạt chính trị, Đảng Cộng sản là chính đảng duy nhất được xem là hợp pháp, đảng duy nhất được phép hoạt động. Và chính đảng duy nhất đề nghị ứng cử viên vào Quốc hội. Hơn nữa, các lãnh tụ của Đảng là nhân vật chiếm các chức vụ chính trong bộ máy Nhà nước. Hoạt động của các cơ quan công quyền luôn luôn dưới sự đôn đốc của Đảng và chấp thuận của Đảng.

Thật vậy, tất cả những cải cách, những quyết định quan trọng, như cải cách điền địa, cải cách kĩ nghệ v.v… đều được thảo luận trước tại cơ quan của Đảng và chỉ đem ra thảo luận tại cơ quan công quyền sau khi Đảng đã có lập trường về các vấn đề ấy. Tóm lại, Đảng có độc quyền toàn diện.

* Độc quyền ý thức hệ: Thật vậy, mọi nhận định, mọi chủ trương về triết lí, về khoa học, về mỹ thuật đều phải căn cứ trên thuyết Mác-xít, như Đảng đã giải thích. Trong xã hội Nga-Sô, không có vấn đề chính kiến hay triết lí khác biệt. Và trên bình diện ý thức hệ này, có một lĩnh vực cần phải lưu ý là lĩnh vực tôn giáo. Theo quan điểm Mác-xít, tôn giáo chỉ là thượng tầng kiến trúc của một xã hội phân chia giai cấp. Tôn giáo phản ảnh sự di nhượng của con người. Thế là nghĩa thế nào? Như các bạn đã biết, theo Mác, loài người ở trong vũ trụ luôn luôn bị chi phối bởi những quyết định thiên nhiên, ở ngoài ý chí của mình. Khi mà loài người chưa làm chủ được những lực lượng thiên nhiên, loài người vẫn phải lệ thuộc ảnh hưởng các lực lượng này và luôn cả các điều kiện xã hội do kĩ thuật sản xuất tạo ra. Con người, trong xã hội tư bản phân chia giai cấp, là một nạn nhân, vì họ bắt buộc phải di nhượng phần tinh hoa của bản chất mình. Vì phải di nhượng, con người cần phải đoạt lại những gì mà mình đã từ bỏ. Bởi thế cho nên, tôn giáo là gì? Chỉ là sự kiện loài người đem những khả năng quyền lợi và giá trị đạo đức vẫn có trong bản thân mình, phóng ra ngoài, tạo thành một Thượng đế hoang đường. Vì con người quá khổ – mà sự khổ sở ấy do điều kiện xã hội tạo ra – cho nên con người thấy cần tìm một cái gì để bù đắp lại – cái gì đó tức là tất cả hình ảnh hoang đường, vô hình để dựa vào đó mà cảm thấy an tâm một phần nào. (Con người chỉ nghĩ đến Trời Phật khi khổ đau, buồn thảm.)
Bởi thế, cho nên tôn giáo là một hiện tượng giả tạo, giả tạo nhưng tự nhiên trong một giai đoạn tiến triển nhất định của xã hội, và chỉ khi nào xung đột giai cấp không còn nữa, khi nào mà con người tự giải phóng được, chinh phục được thiên nhiên và các lực lượng xã hội vẫn còn chi phối, đến khi đó họ sẽ tìm thấy tính cách giả tạo của tôn giáo.
* Độc quyền xã hội và văn hóa: Mọi sinh hoạt xã hội như tổ chức thanh niên, nghiệp đoàn, tất cả đều là chi nhánh của Đảng Cộng sản và vai trò của các tổ chức chỉ là mối liên lạc giữa chỉ thị của Trung ương đảng bộ và các cấp thi hành.
Trong lĩnh vực văn hóa cũng thế, mọi định chế, mọi tổ chức khoa học, mỹ thuật văn nghệ đều bị Đảng chi phối. Và sự chi phối này rất là chặt chẽ trong tất cả các phương tiện phát biểu ý kiến: như báo chí, vô tuyến truyền thanh, truyền hình, xi-nê, sách vở.
Qua các sự kiện liên hệ đến vai trò của Đảng Cộng sản chúng ta thấy rằng Đảng có mặt luôn luôn và bất cứ ở lĩnh vực nào. Sự kiện này, theo quan điểm của Mác-xít, là một việc thông thường. Vì Đảng gồm những phần tử ưu tú và hoạt động nhất. Đảng không phải một lực lượng chống đối những phần tử của nhân dân không vào Đảng. Trái lại Đảng là thành phần ưu tú, tiền phong của toàn thể nhân dân. Nói rằng Đảng rất hùng mạnh, và luôn luôn có mặt và ra chỉ thị, có nghĩa là nhân dân rất hùng mạnh vì Đảng chỉ là tiêu biểu của nhân dân.
Xuyên qua những định chế chính trị được trình bày, nhất là vai trò của Đảng Cộng sản, chúng ta có thể kết luận rằng – cho đến ngày nào thực hiện được giai đoạn thượng tầng của chủ nghĩa cộng sản – Chế độ Liên Sô là một chế độ độc tài, chuyên chế mặc dù luôn luôn được đề cao như một chế độ dân chủ nhất hoàn cầu. Tại sao?
KẾT LUẬN
1. Lí do thứ nhất là sự hiện diện của Đảng Cộng sản, chính đảng duy nhất được phép hoạt động. Đảng Cộng sản là cơ quan đầu não của Liên Sô. Như chúng ta đã biết, trong các kỳ tuyển cử, chỉ Đảng trình ứng cử viên. Không ai có thể ra ứng cử nếu không được Đảng chấp thuận. Một đảng duy nhất, một danh sách ứng cử viên duy nhất, thêm vào đó lại không có vận động tuyển cử gì cả, làm sao mà gọi là dân chủ được? Không có sự tranh luận trong thời kỳ tuyển cử, lại không có tranh luận gì tại diễn đàn Quốc hội? Nếu chúng ta theo dõi hoạt động của Xô-viết tối cao, chúng ta sẽ thấy không có gì đáng gọi là tranh luận tại Quốc hội. Các nghị sĩ liên tiếp lên diễn đàn cùng phô bày một quan điểm, cùng tán tụng một chính sách, cùng chửi thế giới tư bản rồi cùng vỗ tay, hoan nghênh và đồng thanh chấp thuận!
Thiếu hẳn một hệ thống tấn phong quốc gia Liên Sô không thể xem là dân chủ được.
2. Lí do thứ hai – và đây là đặc điểm của các chế độ độc tài hiện đại – là việc sử dụng một hình thức tuyên truyền độc đáo, một chiều. Và sự tuyên truyền này có tính cách toàn diện áp dụng cho đứa trẻ từ khi ở học đường đến khi khôn lớn, làm việc: trong các phong trào thanh niên, qua cuộc sinh hoạt văn hóa hay nghề nghiệp, ở những nơi giải trí, bất cứ đâu đâu người công dân Liên Sô chỉ biết nghe, được nhồi sọ bởi một luận điệu một chiều hướng bởi các phương tiện tân kì ngày nay. Và sự tuyên truyền này được nhắc đi nhắc lại nhằm đập mạnh vào tâm óc con người để rồi họ có những ý tưởng và hành vi mà Chính phủ muốn họ có.
Ngày xưa, các chế độ chuyên chế chỉ áp dụng sức mạnh để áp bức; dù sao hậu quả của nó cũng còn giới hạn. Ngày nay, kĩ thuật tuyên truyền đã đạt đến mức tinh vi, có thể chiếm hẳn tâm hồn của con người và uốn nắn con người theo ý muốn của chế độ. Và mỗi khi đã bị nhồi sọ như vậy, con người không còn có ý niệm phản đối mà trở thành cái máy tuân theo mệnh lệnh của chính quyền.
3. Như vậy làm sao có cuộc đối thoại tự do, đặc tính của nền dân chủ? Nếu dân chủ là chế độ trong ấy Chính phủ dựa trên sự đồng ý của nhân dân, sự đồng ý ấy phải là một sự đồng ý chân thành của một nhân dân tự do. Với hai lí do trên chúng ta không thể xem nhân dân Liên Sô là một nhân dân có đủ điều kiện để quyết định tự do được. Chế độ Liên Sô, chung quy, chỉ là một thứ «chủ nghĩa tư bản nhà nước» với tất cả những bất công, áp bức và trên bình diện quốc tế, Liên Sô cũng là một đế quốc không kém gì các đế quốc khác.
(Hết thiên thứ hai Những chế độ chuyên chế, đón xem thiên thứ baNhững chế độ vùng Đông Nam Á)
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

[1] Chúng tôi chưa hiểu rõ chỗ này: Trong 15 nước cộng hòa thuộc Liên Sô trước đây không có những nước nào tên như vậy. (p&c)