Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Vài mảng tối trong di sản Võ Văn Kiệt



Như một tất yếu, đã là lãnh đạo cộng sản cao cấp thì gần như không có khiếm khuyết kể cả đức độ hay tài năng. Đó thường là sự đánh giá chính thống (thuộc nhà nước, các thành phần có cảm tình với nhà nước) trong các chế độ cộng sản. Nhưng đối với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một lãnh đạo nổi bật trong thời kỳ “đổi mới” của Việt Nam, sự đánh giá một chiều kiểu đó dường như không chỉ giới hạn ở các cơ quan chính thống, quan điểm chính thống. Thiển nghĩ, mọi sự thiên lệch (dù ở phía nào) trong tư duy, đánh giá đều không có lợi cho tiến bộ. Việc nhận biết để thoát được xu hướng tư duy, đánh giá có hại đó là rất cần thiết, nhất là trong thời điểm hiện tại khi Việt Nam đang phải đau đớn chứng kiến những hậu quả hết sức tai hại, nan giải từ các ngộ nhận lịch sử (“Nước ta có vinh dự lớn là một tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa”[1], “Việt Nam-Trung Hoa vừa là đồng chí vừa là anh em”[2], v.v.). Bài viết sau đây nhằm mang lại một số cân bằng cho những đánh giá một chiều về di sản Võ Văn Kiệt đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông gần đây.

Báo Người Việt mới đây đã thuật lại một tư liệu của WikiLeaks có nói đến cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Tư liệu này đưa ra những thông tin phản ánh tầm nhìn, tầm ảnh hưởng của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong việc hình thành nhân sự lãnh đạo quốc gia nối tiếp sau ông. Trong một trích dẫn, Người Việt viết: ““Một nguồn tin ở đồng bằng sông Cửu Long cho biết, cha của Nguyễn Tấn Dũng tử nạn vì bị Hoa Kỳ hay quân đội VNCH tấn công ngay giữa lúc đang họp với hai lãnh đạo của lực lượng nổi dậy lúc đó là Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt.”

Công điện giải thích:

“Vẫn theo nguồn tin này, cả Lê Ðức Anh và Võ Văn Kiệt tin rằng họ nợ Dũng một món ‘ân oán’, và có bổn phận phải đền bù cho Dũng.
Ðó là lý do tại sao, dù có lập trường đối nghịch nhau, cả hai, Lê Ðức Anh thuộc thành phần bảo thủ, từng giữ chức chủ tịch nước từ năm 1992 đến 1997, và sau khi về hưu vẫn có rất nhiều thế lực; và Võ Văn Kiệt, cố Thủ Tướng và là nhân vật có khuynh hướng cải tổ nặng ký nhất, đều cùng tiếp tay hỗ trợ cho sự nghiệp chính trị của Dũng.”

Những thông tin kể trên của Người Việt (thuật lại WikiLeaks), dù chưa thể khẳng định hay bác bỏ, làm liên tưởng ngay đến câu chuyện cổ được học giả Phan Kế Bính chép lại trong tác phẩm Việt Nam Phong tục, xuất bản lần đầu năm 1915: “Quản trọng thuở hàn vi cùng với Bảo Thúc đi buôn, cứ chia lời thì Quản Trọng chiếm lấy phần hơn, vậy mà Bảo Thúc cũng không chê Quản Trọng là tham, vì biết Quản Trọng nghèo hơn. Đến khi Quản Trọng gặp nạn Công-Tử Cổ, Bảo Thúc cố sức giúp thoát nạn, lại dâng lên vua Tề Hoàn công để vua dùng làm tướng, mà mình lại chịu ở hàng dưới, Bảo Thúc cũng không lấy thế làm hiềm. Về sau Quản Trọng sắp mất, vua hỏi ai thay được ngôi mình, thì Quản Trọng tiến cử người khác, mà bác Bảo Thúc đi không tiến, Bảo Thúc lại càng phục chớ không dám giận. Ấy là vì Bảo Thúc biết cái tài Quản Trọng hơn mình nhiều, mà Quản Trọng thì một lòng vì nước, coi việc nước trọng hơn tình riêng anh em, cho nên Bảo Thúc càng sợ bụng công bình của Quản Trọng, mà Quản Trọng cũng càng phục cái lượng to của Bảo Thúc.”[3]

Còn đây là một thông tin khác cũng liên quan tới cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Đó là vụ án “cố ý làm lộ bí mật nhà nước” xảy ra năm 1995 khi ông Võ Văn Kiệt đương giữ chức Thủ tướng, trong đó tài liệu được coi là “bí mật nhà nước” là bức thư của đương kim Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho Bộ Chính trị đề ngày 09/08/1995. Nhưng, xét từ hình thức đến nội dung, bức thư đó không thuộc qui định tài liệu Tối mật của các qui phạm pháp luật đương thời (Pháp lệnh về Bảo vệ bí mật Nhà nước, Qui chế Bảo vệ bí mật Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định 84/HĐBT ra ngày 9/3/1992). Bức thư vừa kể còn được phổ biến khá rộng rãi trong dân chúng vào trước khi xảy ra vụ án và chính ông Hoàng Hữu Nhân, cựu Bí thư thành ủy Hải Phòng, một cán bộ cộng sản lão thành, đã viết lên bản sao của bức thư đó rằng: “Chẳng có gì đáng gọi là “bí mật quốc gia”. Không đăng báo, phát thanh là một thiếu sót.” Những “bị cáo” nạn nhân trong vụ án đó là ông Lê Hồng Hà, Đại tá công an về hưu, ông Nguyễn Kiến Giang, cựu Phó giám đốc Nhà xuất bản Sự thật và ông Nguyễn Xuân Tụ (tức Hà Sĩ Phu), Phó tiến sỹ sinh học, cựu Phó giám đốc Phân viện Khoa học Việt Nam tại Đà Lạt. Cả ba người đều bị kết tội với các án tù dài ngắn khác nhau vì bị cáo buộc rằng đã “cố ý làm lộ bí mật nhà nước” là bức thư kể trên. Vụ án đã gây nên nhiều bất bình, phẫn nộ nơi dư luận trong, ngoài nước. Nhiều cán bộ cộng sản lão thành cũng đã lên tiếng bênh vực hay vận động để ủng hộ các bị cáo. Nhưng đương kim Thủ tướng Võ Văn Kiệt hoàn toàn im lặng. Bản thân ông Lê Hồng Hà, vào tháng 01/1998, sau khi ra tù, đã có đơn thư khiếu nại gửi tới các cơ quan tư pháp, tòa án và đồng kính gửi tới chính cá nhân cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt (lúc đó đang giữ chức Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS VN)) để đòi hỏi minh oan. Nhưng phản hồi cho lá đơn đó vẫn là sự im lặng, của những nơi, những cá nhân được gửi, từ đó cho tới tận hôm nay.

Vụ án vừa kể cũng làm gợi lại một câu chuyện khác được ghi ở ngay trong lịch sử Việt Nam cận đại. Quan Phụ chánh Đại thần Ngô Đình Khả của triều Nguyễn, năm 1907, lúc ông đương kim phụ chánh tại triều; vua Thành Thái có hành vi chống Pháp nên bị thực dân bày trò các đại thần triều đình kí thỉnh nguyện thư yêu cầu viện Cơ mật và Pháp truất quyền và đày vua Thành Thái sang Châu Phi, lấy cớ nhà vua bị bệnh tâm thần. Lúc đó tại triều, hầu hết các đại thần đều ký vào thỉnh nguyện thư đó. Riêng Ngô Đình Khả đứng lên phản đối, rồi sau đó bị giáng chức, cho về hưu trí không có hưu bổng. Năm 1913, Thượng thư Bộ công đương nhiệm Nguyễn Hữu Bài cũng phản đối việc Khâm sứ Mahé cho khai quật mả vua Tự Đức để vơ vét châu báu. Nhân dân sau đó đã ghi lại khí tiết hai vị quan vừa kể bằng câu ngạn ngữ: ”Đày vua không Khả, đào mả không Bài[4]. Còn chuyện sỹ phu thời phong kiến treo áo từ quan, rũ bỏ danh hoa, phú quí của triều chính thối nát để về quê sống đời bần đạo là những chuyện có nhiều trong lịch sử, không thể kể xiết.

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn chính là người đã hạ bút ký vào một văn bản hết sức phản dân chủ: Nghị định 31/CP ban hành ngày 14/04/1997 cho phép giam giữ công dân ngay tại gia đình (quản chế tại địa phương) mà không cần xét xử, mở đường dễ dàng hơn cho những đợt trấn áp sau đó của ĐCS VN đối với những người thể hiện công khai chính kiến khác biệt. Có thể có người cho rằng cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ là người phải chấp hành kỷ luật đảng hay nguyên tắc “tập trung dân chủ” của ĐCS VN khi hạ bút ký vào văn bản phản dân chủ đó. Nhưng nếu vậy, ai có thể trả lời được cho câu hỏi: trách nhiệm cá nhân, nhân cách cá nhân của một con người ở đâu?

Tuy nhiên, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một lãnh đạo cộng sản Việt Nam vào hàng cao cấp nhất khi về hưu đã biểu lộ một số tiến bộ vượt hẳn lên so với bản thân ông trước đó và đảng của ông. Ông đã dám bày tỏ công khai những quan điểm khác với đường lối chung của ĐCS VN về một số vấn đề như cách nhìn nhận về chế độ Việt Nam Cộng hòa hay người có chính kiến khác biệt. Hoặc ngay khi đương chức ông đã quan tâm, trân trọng, lắng nghe một số trí thức, văn nghệ sỹ, kể cả những người đã ở “phía bên kia”, hoặc ông đã góp phần đưa đến những quốc sách kinh tế thuận lợi cho tiến bộ xã hội. Thậm chí có thể, như một số người đánh giá, ông là một lãnh đạo cộng sản “đã để lại nhiều dấu ấn trên khắp miền đất nước”, khi “mất đi thì bỗng để lại một khoảng trống mênh mông”. Nhưng, nếu chỉ đánh giá một chiều ưu điểm hay ca ngợi cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt như một lãnh đạo mẫu mực của cải cách, của nhân phẩm, dù chỉ với dụng tâm làm chỗ dựa cho những vận động cải cách khác, thì không chỉ gây ngộ nhận cho dư luận mà còn rất dễ mắc ngay phải những rào cản tiến bộ mà những kẻ cầm quyền độc tài luôn muốn tạo ra hay những kẻ láu cá, cơ hội rất thích bám vào. Vì sự im lặng trước bất công để bảo thân, hưởng lợi khi đương quyền sẽ rất ung dung khi nghĩ rằng dư luận vẫn trông ngóng một sự nhẫn nhục thâm sâu để chờ thời. Những kiểu lên tiếng nửa vời khi lợi lộc đã tràn đầy lúc hưu trí sẽ rất tự đắc khi tin rằng dư luận không thể phân biệt được với những thức tỉnh lương tâm thực sự vào lúc cuối đời. Cũng không phải ngẫu nhiên mà truyền thông nhà nước hiện nay vẫn dành nhiều nguồn lực để tô điểm cho hình ảnh của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, vẫn có nhiều sách tôn vinh công lao bác “Sáu Dân” được xuất bản. Nhưng nếu cũng chỉ nghe, xem và đọc những gì do truyền thông nhà nước nói đến thì khó có thể tin rằng trên đời này còn có những lãnh đạo cộng sản khác có những cái tên như Trần Xuân Bách, Hoàng Minh Chính, Trần Độ hay Nguyễn Hộ.

Tuy vậy, sẽ là không tưởng nếu đòi hỏi một người, đã đi theo cộng sản từ nhỏ rồi lại phấn đấu tới hàng ngũ lãnh đạo cao nhất trong đảng cộng sản, phải biết đến những thiết chế dân chủ có khả năng kiềm chế quyền lực, có sức mạnh làm chùn mọi ý đồ thâu tóm quyền lực hay phải có những ý tưởng, những hành động cải cách bài bản và rõ ràng theo mô hình dân chủ. Nhưng, người cộng sản hay bất kỳ con người nào khác, dù chưa biết gì về dân chủ, cũng vẫn có thể góp phần duy trì hay đặt lại được những nền móng cơ bản cho một xã hội tử tế hay một xã hội dân chủ trong tương lai. Đó là tập quán không im lặng trước bất công, trước cái ác và ý thức trách nhiệm xã hội - biết đặt công lợi hơn tư lợi, dám đặt tình chung với nước lên trên tình riêng với gia tộc, bạn hữu, đảng phái ngay khi cần và lúc bản thân con người có khả năng gây ảnh hưởng nhất. Bảo Thúc, Quản Trọng, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài đã là những người như thế dù họ không phải là những người thuộc thời đại dân chủ hay cộng hòa. Đáng tiếc, trong di sản của Võ Văn Kiệt không có những mảng sáng như thế. Có thể việc đánh giá này là quá khắt khe trong bối cảnh khắc nghiệt của chính thể Việt Nam dưới sự thống trị độc tôn của đảng cộng sản. Nhưng người xưa đã nói: Nước loạn mới biết tôi trung.

Tuy thế, cũng cần phải nhận thấy các mảng tối trong di sản Võ Văn Kiệt nói đến ở đây (đặt tình riêng với đảng, với đồng đội, thân hữu lên trên tình chung với tổ quốc, dân tộc, xã hội; im lặng làm ngơ hay tiếp tay cho sai trái, bất công khi đương chức) không phải là cá biệt trong hệ thống chính trị (cộng sản) ở Việt Nam (cũng như ở các nước cộng sản khác). Có những lãnh đạo cộng sản cao cấp khác, được Nhà nước đánh giá “vĩ đại” hơn cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt rất nhiều, nhưng những mảng tối tương tự trong di sản của họ còn tệ hơn nữa. Vậy phải chăng chế độ chính trị do những người cộng sản dựng nên đã không chỉ kìm hãm, gây hại cho tiến bộ chung của dân tộc, nhân loại mà còn cầm tù, hủy hoại cả nhân cách, tài năng của những cá nhân lãnh đạo cộng sản tử tế nhất? Vấn đề này xin được bàn ở một dịp khác.

Phạm Hồng Sơn
27/09/2011


[1] Trích lời phát biểu của Hồ Chí Minh tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa III, 1965. Hồ Chí Minh, Về giáo dục thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà nội, 1980. Tr.370.
[2] Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc: “Việt Nam-Trung Hoa vừa là đồng chí, vừa là anh em”
[3] Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục, Nxb Bút Việt, 02/1975, Tr. 245-246.
[4] Nguyễn Q.Thắng, Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Văn Hóa, 1997, Tr.1216; Tiểu sử Quận Công Phước Môn Nguyễn Hữu Bài 1863-1935

Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

Nói thêm về tiểu thuyết “The Beauty of Humanity Movement”


“The Beauty of Humanity Movement” là cuốn tiểu thuyết của nữ nhà văn, người Canada, Camilla Gibb, do Doubleday Canada xuất bản lần đầu tháng 09/2010 và vừa tái bản tại Mỹ và Anh đầu năm 2011. Tiểu thuyết này đã được BBC tiếng Việt giới thiệu, nhưng sau khi trực tiếp đọc cuốn truyện tôi thấy những gì BBC giới thiệu chưa đủ nói lên được những điều quan trọng cuốn truyện muốn truyền tải tới bạn đọc – những điều, theo đánh giá của cá nhân tôi, đang rất cần cho sự phát triển của Việt Nam. Vậy xin giới thiệu và chia sẻ thêm với độc giả.

Trung tâm của cuốn tiểu thuyết “The Beauty of Humanity Movement” (tạm dịch: Vẻ đẹp của Phong trào Nhân văn) xoay quanh một ông già bán phở rong tại Hà Nội có biệt tài trong cách chế biến nước dùng phở vào thời điểm khoảng năm 2007. Nhưng câu chuyện sẽ dẫn ta qua một quãng thời gian trải dài từ những năm 40, 50 của thế kỷ trước, qua các thời kỳ “cải cách ruộng đất”, “bao cấp”, qua “đổi mới” và tới tận sát thời điểm cuốn sách được xuất bản. Ông già Hưng bán phở rong chính là một nhân chứng, một người bạn, một người học trò và là ân nhân của một nhóm thực khách quen thuộc ở quán phở của ông tại Hà Nội vào những năm 1950. Những thực khách quen xa xưa đó là những họa sỹ, nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng không chấp nhận sự chỉ đạo, áp đặt, nô dịch về suy nghĩ, sáng tác của chế độ mới hình thành trên miền Bắc Việt Nam sau cuộc “cách mạng” do những người cộng sản lãnh đạo. Nhân vật thứ hai là một cô gái Việt kiều người Mỹ, có tên Maggie Lý, trở lại Việt Nam để tìm lại bố, đúng hơn là đi tìm lại quá khứ và hình ảnh của người bố đã bị mất liên lạc với mẹ con cô, khi cô (lúc đó mới vài tuổi) và mẹ vội vã lên máy bay sang Mỹ trong những giây phút hỗn loạn của thời khắc 30/04/1975. Một trong những điều thôi thúc Maggie Lý đi tìm lại quá khứ của bố mình là ký ức tuổi thơ của cô về những ngón tay cong queo như những móng chim của bố cố quặp chiếc bút để vẽ cho cô những bức tranh. Bố của Maggie Lý chính là một cộng tác viên của phong trào “Nhân văn”, ông đã trốn thoát vào Nam và sau đó bị kẹt lại Sài gòn trong những giây phút định mệnh cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, rồi mất tích. Gặp nhiều trắc trở và có nhiều lúc Maggie Lý định bỏ cuộc, không chỉ vì thấy vô vọng mà cô còn phát hiện ra bố cô chỉ là một trong số hàng triệu nạn nhân của chế độ mà bố cô đã phải chạy trốn và bố cô cũng chưa phải là nạn nhân bất hạnh nhất. Cuối cùng, Maggie Lý đã xác định lại được đúng lịch sử của bố mình, một họa sỹ không khuất phục bạo quyền đã bị “người ta” cố tình loại bỏ khỏi nghề nghiệp (bằng những viên gạch đập lên các ngón tay cho đến nát) và tẩy đi mọi dấu vết đã hiện diện trên đời dù là nhỏ nhất (như cái tên sinh viên trong hồ sơ lưu trữ của một trường mỹ thuật). Từ hai nhân vật chính này độc giả sẽ gặp thêm nhiều nhân vật với những tính cách, quá khứ, quan niệm, trăn trở khác nhau về cuộc sống, xã hội thuộc nhiều thời kỳ của Việt Nam, từ thời “xếp hàng cả ngày để mong mua được vài miếng thịt tiêu chuẩn rồi cuối cùng được trả lời là “hôm nay không có thịt” “, thời của những thanh niên đắm đuối với Việt Nam Idol, hay những nhân vật, những cái tên chỉ xuất hiện thoáng qua cũng đủ gợi lên những suy nghĩ trái ngược hay làm nhớ đến những biến cố, biến chuyển lớn, phức tạp của Việt Nam trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.

Nhưng “The Beauty of Humanity Movement” không chỉ làm nổi lên sự bi tráng, bi kịch của “Nhân văn-Giai phẩm” hay những nhẫn tâm, ác độc, xảo quyệt trong việc dập tắt khát vọng tự do của giới nghệ sỹ, trí thức. Với cách tiếp cận đa diện về chính trị, kinh tế[1], văn hóa, lịch sử, truyền thống, “The Beauty of Humanity Movement” còn làm bật lên những thiếu hụt nhận thức có tính nền tảng cho một Việt Nam dân chủ như sự nhận thức đúng về tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, chủ nghĩa tư bản có trách nhiệm (responsible capitalism), hòa giải, hòa hợp giữa người Việt Nam với nhau hay việc hiểu được đúng hậu quả mối quan hệ giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh…

Khi gập cuốn truyện lại, lúc không còn trang nào để lật nữa, độc giả Việt Nam vẫn có thể phải vấn vương mãi trong đầu nhiều điều mà các nhân vật hay người kể chuyện đã nói đến hay gợi ra. Ta đã hiểu đúng về tự do ngôn luận chưa nếu ta không muốn để người khác được nói ra điều mà ta cho là lố lăng, là có hại cho xã hội? Đất nước có “đứng lên” (emerging) được không, có chống được cái ác không, nếu ai cũng chỉ coi gia đình mình là quan trọng nhất? Phải chăng sự trì trệ, lạc hậu trong chính suy nghĩ của ta là nguyên nhân của những bất công, ngang trái ngoài xã hội? Tư lợi (self-interest) có luôn luôn là điều xấu như ta vẫn nghĩ? Một đất nước sẽ ra sao khi nó tự xóa đi lịch sử của mình, xóa đi hết thảy những gì trái ngược với Đảng? v.v.

Có thể nhiều nhà văn Việt Nam cũng để ý, trăn trở tới những vấn đề tương tự kể trên, nhưng để có một tác phẩm văn học Việt nêu lên được những vấn đề như thế, đến nay, vẫn không phải là điều dễ dàng. Vì vậy “The Beauty of Humanity Movement” là một tác phẩm văn học không chỉ hữu ích cho người Việt Nam mà còn rất xứng đáng được người Việt Nam trân trọng, cảm ơn. Chỉ tiếc rằng “The Beauty of Humanity Movement” chưa được dịch sang tiếng Việt và nếu có được dịch cũng chưa thể xuất bản một cách hợp pháp tại Việt Nam.

Phạm Hồng Sơn
18/09/2011


[1] Chữ “kinh tế” này bổ sung sau khi đã gửi đăng trên các trang mạng

Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Đảng CS VN sập bẫy trong các cuộc biểu tình chống bá quyền Trung Quốc?

Một đặc tính chung của mọi kẻ cầm quyền, dù là dân chủ hay độc tài, là đều không thích thú lắm với những hoạt động độc lập (tự phát, tự tổ chức) của dân chúng, vì những hoạt động độc lập của dân chúng thường có xu hướng phân ly với ý muốn của kẻ cầm quyền. Điều khác chỉ là trong chính thể dân chủ, kẻ cầm quyền buộc phải tôn trọng mọi việc làm của dân chúng khi pháp luật không cấm (kể cả biểu tình phản đối chính phủ), hoặc nếu biết khôn khéo thì tỏ ra hoan nghênh hoặc nếu khôn ngoan thực sự thì biết quan sát, lắng nghe để áp dụng, phối hợp những gợi ý, xu hướng có lợi cho chính sách cầm quyền từ mọi hoạt động độc lập của dân chúng. Việc cấm cản những việc làm mà pháp luật không cấm là sự tự sát chính trị và có thể bị truy tố đối với kẻ cầm quyền trong chính thể dân chủ.

Cũng có một đặc điểm chung gần như phổ quát từ trước đến nay cho mọi chính thể độc tài hay dân chủ là không kẻ cầm quyền nào lại đi xúc xiểm, trấn áp người thể hiện lòng yêu nước khi chủ quyền quốc gia bị xâm lấn hay quốc thể bị sỉ nhục. Các chính đảng, các chính trị gia luôn coi việc ủng hộ tình cảm yêu nước, các phong trào quần chúng yêu nước là những cơ hội quí để có được cảm tình, lấy thêm sự ủng hộ của cử tri cho bản thân và chính đảng của mình. Ngay việc lãnh đạo của một quốc gia viếng thăm một ngôi đền “nhạy cảm”, đi tới một hòn đảo đang tranh cãi hay chỉ là một thay đổi nhỏ trong sách giáo khoa lịch sử của một quốc gia này cũng có thể gây ra những cuộc biểu tình phản đối rầm rộ và tạo ra cơ hội hiếm quí cho các chính trị gia muốn có thêm uy tín ở các quốc gia khác.

Rất đáng tiếc ở Việt Nam hiện nay các chính trị gia của ĐCS VN dường như lại không sử xự đúng như thế. Nếu như Việt Nam đã có một hệ thống chính trị dân chủ chấp nhận sự tồn tại của các đảng khác, bên cạnh sự tồn tại của ĐCS VN, thì chắc chắn những sự kiện xúc xiểm, sách nhiễu, đạp mặt, bắt bớ người biểu tình phản đối hành vi ngang ngược của Trung Quốc vừa qua đã đem lại rất nhiều cơ hội gia tăng uy tín cho các đảng chính trị khác. Đáng tiếc, tại Việt Nam lại chưa có đảng nào ngoài ĐCS VN được phép hoạt động nên các cơ hội đó đều bị bỏ trống. Nhưng điều đáng tiếc hơn nữa là ĐCS VN, đảng duy nhất hiện có mặt trên chính trường, lại không những không tận dụng được cơ hội đó mà còn đang đi theo chiều ngược lại và ngược lại với cả ngọn cờ “độc lập dân tộc” mà ĐCS VN đã từng phất cao để giành quyền lực. Thật quá khó hiểu cho ĐCS VN hiện nay! Có đảng cầm quyền nào, có kẻ cầm quyền nào, có tên bạo chúa nào lại không muốn có thêm cảm tình, tin cậy của dân chúng?

Hay ĐCS VN đã quá mất tự tin đến nỗi cứ cho rằng những người biểu tình chống âm mưu thôn tính, đồng hóa đang ngày càng tỏ ra trắng trợn của Trung Quốc đã bị một thế lực nào đó xúi giục, mua chuộc, ép buộc? Cũng có thể. Nhưng ngay cả ĐCS VN với vị thế đang toàn quyền, cùng với một hệ thống trấn áp khổng lồ (cảnh sát, dùi cui, nhà tù,…) kèm theo một nguồn lực gần như bất tận về vật chất và truyền thông mà còn không khuất phục, mua chuộc được những cô gái trẻ, những phụ nữ chân yếu tay mềm thì sao lại có thể cho rằng một thế lực khác có thể thành công đối với chính những con người đó?

Phải chăng những phụ nữ trung trinh, những đàn ông trẻ trung hay thâm trầm, đầy tri thức đó lại lú lẫn đến mức dám đánh đổi cả tương lai đang tràn trề, hạnh phúc gia đình đang tràn đầy hay đời sống vật chất đang thành đạt, viên mãn để đổi lấy những giá trị ảo, những lời dụ khị hão huyền nào đó? Cũng có thể, nhưng nếu họ thực là những người kém cỏi và tầm thường như vậy thì “hồn vía” của họ sao còn giữ được khi phải trực tiếp nếm mùi hay nghe kể lại những "hang ổ mafia" trong Hỏa Lò hay các nhà tạm giữ cấp quận, huyện? Nói gì đến việc họ lại vẫn bình thản chia sẻ, thương yêu, gắn bó với nhau hơn sau những ngày bị sỉ nhục, giam cầm.

Những tưởng sau cuộc đối thoại lịch sự bất ngờ ngày 27/08/2011 giữa một số người tham gia và ủng hộ biểu tình với cơ quan công quyền thành phố Hà Nội (do ĐCS VN lãnh đạo), chính quyền sẽ đối xử thật trọng vọng với những người biểu tình chống mộng bá quyền Trung Quốc và sẽ tỏ ra hối hận, nhanh chóng chủ động khắc phục mọi sai lầm trong việc đối xử trước đây với người biểu tình. Nhưng hết sức khó hiểu, người biểu tình vẫn bị hắt hủi, nghi kỵ và thù ghét. Ngay cả yêu cầu rất chính đáng và thiện chí từ những người biểu tình có uy tín (yêu cầu Đài phát thanh, Truyền hình Hà Nội phải cải chính và xin lỗi cho những bình luận sai trái, vu khống, xúc phạm toàn thể người biểu tình) cũng đã bị bất chấp, khinh thường hay việc gặp gỡ, chia sẻ của những người đã từng tham gia biểu tình với nhau cũng luôn bị các lực lượng công lực của ĐCS VN dò xét, phá rối, xúc phạm thô bạo.

Phải chăng ĐCS VN đang bị sa vào bẫy của một tổ chức hay một thế lực nào đó muốn phá đi nốt những gì là uy tín, trông mong vào ĐCS VN vẫn còn sót lại đâu đó trong dân chúng? Hay quyền lực tuyệt đối thì không chỉ tha hóa tuyệt đối mà còn u muội tuyệt đối (absolute power, absolute ignorance)?

Phạm Hồng Sơn
07/09/2011