Nguyễn Văn Bông
CHƯƠNG II: VIỆT NAM
Sau gần một thế kỉ dưới ách thống trị ngoại
bang, nước Việt Nam đã vùng lên – với Thế giới Đại chiến thứ nhì – giành lại
chủ quyền. Nhưng, trong lúc các quốc gia đồng cảnh ngộ đã vượt qua những khó
khăn và đang củng cố nền độc lập, xây dựng xã hội trong cảnh thái bình, Việt
Nam phải trải qua một giai đoạn lịch sử chính trị vô cùng xáo trộn, với khói
lửa của chiến tranh, với đất nước phân li và tương lai mù mịt.
Mục I: TỪ ĐẾ QUỐC ĐẾN CHÍNH THỂ CỘNG HÒA
9-3-1945: Quân đội Thiên hoàng, từ lâu có mặt
trên toàn cõi Đông Dương, trong chớp nhoáng lật đổ hệ thống chính quyền thuộc
địa và xóa bỏ chủ quyền Pháp Quốc.
11-3-1945: Từ Cơ mật Viện của triều đình Huế,
một bản Tuyên cáo được công bố, nguyên văn như sau: “Cứ tình thế chung trong
thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam công nhiên tuyên bố từ
ngày nay Điều ước Bảo Đại 1884 với nước Pháp bãi bỏ và nước Việt Nam khôi phục
quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự túc tiến triển cho xứng địa vị một
quốc gia độc lập”.
14-3-1945: Hoàng đế Bảo Đại lại ban chiếu hủy
bỏ những hiệp ước bất bình đẳng mà nước Pháp đã ép buộc nước Việt Nam kí ngày
6-6-1862 và ngày 15-3-1874 và toàn bộ xứ Nam Kỳ từ ngày ban chiếu, thuộc chủ
quyền đế quốc Việt Nam.
Rồi ba hôm sau, ngày
17-3-1945, Dụ số 1 của Hoàng đế Bảo Đại thành lập Chính phủ Trần Trọng
Kim, “một Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập sau 80 năm
thuộc quyền ngoại quốc thống trị”.
Tình thế Việt Nam lúc
này rất đen tối. Đảng Cộng sản Đông Dương, núp sau mặt trận Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh) đã tuyên truyền khẩu hiệu “Đánh Nhật đuổi
Pháp”, hoạt động ráo riết phản tuyên truyền và tranh giành ảnh hưởng chính trị
với Chính phủ Trần Trọng Kim và các đảng phái Quốc gia.
Và khi trái bom nguyên
tử của Mỹ đã dội xuống Trường Kỳ[1] và Quảng Đảo[2] đưa đến sự đầu hàng vô điều kiện của Nhật, Việt Minh lợi
dụng thời cơ với chiến dịch ngấm ngầm và kĩ thuật khéo cướp chính quyền tại Hà
Nội nhân một cuộc biểu tình ngày 13-8-1945[3] để ủng hộ chính
phủ Trần Trọng Kim.
Trước phong trào chính trị lên cao tại Hà Nội,
chính phủ Trần Trọng Kim, thiếu bản lĩnh, mất tinh thần tranh đấu từ chức và
Bảo Đại, một con người thiếu ý thức chính trị tuyên bố thoái vị ngày 22 tháng
8-1945.
Trong chiếu thoái vị ngày 25-8-1945 Bảo Đại có
viết:
“Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc
Bộ lên cao quá, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi Quốc hội thì không thể nào tránh
khỏi nạn Nam Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người
lợi dụng.
Cho nên mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ tới
công lao Liệt thánh vào sinh ra tử trong gần 400 năm để mở giang sơn đất nước
từ Thuận Hóa đến Hà Tiên, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều
khiển quốc dân lại do một chính phủ Cộng hòa.”
Thật là ngây thơ! Thoái vị và trở thành cố vấn
tối cao cho Chính phủ Hồ Chí Minh.
Rồi từ đó, tình hình Việt Nam biến chuyển rất
mau lẹ trong khung cảnh chính trị rối ren giữa hai khuynh hướng Cộng sản và
Quốc gia.
Đoạn: KHUYNH HƯỚNG CỘNG SẢN
Sau khi Bảo Đại thoái vị, Hồ Chí Minh công bố
ngày 2-9-1945 Nội các của ông và đồng thời thiết lập “Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa”. Tình trạng tạm thời này được hợp thức hóa bằng một cuộc tổng tuyển cử
ngày 6-1-1946 bầu Quốc hội Lập hiến gồm 330 dân biểu được phân phối như sau:
230 đại diện Việt Minh; 50 đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng; 30 đại diện các dân
tộc thiểu số; 20 đại diện Việt Nam Đồng minh Hội.
Ngày 16-11-1946 “Hiến pháp Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa” do Quốc hội Lập hiến soạn thảo và biểu quyết được ban hành. Chiếu
theo Hiến pháp này, tổ chức chính quyền được ấn định như sau:
Quyền Hành pháp: được giao phó cho một vị Chủ tịch và một Hội
đồng Chính phủ. Chủ tịch đóng vai trò Quốc trưởng vô trách
nhiệm chính trị và có một số quyền hạn của các Quốc trưởng trong chế độ Nghị
viện như: chỉ định Thủ tướng, ban hành luật pháp, quyền ân xá v.v… Hội
đồng Chính phủ do Thủ tướng chủ tọa gồm một số Bộ trưởng và Thứ trưởng
nắm thực quyền Hành pháp và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Quyền Lập pháp do một Quốc hội độc viện đảm nhiệm. Quốc
hội mỗi năm chỉ họp hai khóa thường lệ và giữa hai khóa họp được đại diện bởi ủy
ban thường trực. Cần ghi nhận hai đặc điểm: thứ nhất ủy ban thường trực sử
dụng toàn quyền của Quốc hội nghĩa là có thể lấy những quyết định có hiệu lực
như đạo luật, kiểm soát hoặc chỉ trích Chính phủ, tuyên chiến v.v… Thứ hai là
các dân biểu có thể bị bãi miễn bởi nhân dân nếu có kiến nghị bất tín nhiệm của
1/4 tổng số cử tri và nếu kiến nghị ấy được 2/3 tổng số dân biểu chấp thuận.
Tóm lại, phân tích Hiến pháp 1946, chúng ta
liên tưởng ngay đến Hiến pháp Liên Sô. Trong cả hai, nguyên tắc phân quyền không
được áp dụng, trong thực tế quyền lực ở trong tay Đảng Cộng sản, Hiến pháp 1946
của Việt Minh chung quy là một văn kiện xác nhận long trọng địa vị ưu thế của
một chính đảng. Quốc hội cũng như Chính phủ chỉ là những định chế hình thức,
những phương tiện thực hiện và hợp thức hóa chính sách cùng đường lối của đảng
thống trị.
Và tổ chức chính quyền này vẫn tiếp tục áp
dụng xuyên qua bao biến cố đưa đến Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946; sự tan vỡ của Hội
nghị Fontainebleau 27-7-1946; Tạm ước 14-9-1946 và đến đêm 19-12-1946 chiến
tranh lại bùng nổ giữa quân đội Pháp và Việt Minh, cuộc chiến tranh tiếp diễn
cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève 20-7-1954 phân chia lãnh thổ Việt Nam.
Đoạn 2: KHUYNH HƯỚNG
QUỐC GIA
Trong khi Việt Minh chiếm và củng cố chính
quyền ngoài Bắc tháng 9 năm 1945, trong Nam quân đội Anh đổ bộ lên Saigon với
mục đích giải giới Nhật. Cùng theo quân đội Anh có quân đội Pháp lợi dụng cơ
hội tái chiếm Đông Dương.
Mặc dù hoàn thành được hệ thống cai trị tại
miền Nam với các chính phủ bù nhìn, và sau khi đổ bộ lên Bắc Việt với Hiệp định
Sơ bộ 6-3-1946, công cuộc tái chiếm Đông Dương càng ngày càng khó khăn trước
sức kháng chiến anh dũng của dân tộc Việt Nam.
Có lẽ nhận thấy không thể dùng võ lực, Pháp
liền nghĩ đến giải pháp chính trị. Vì tiếng súng ngày 19-12-1946 đã chấm dứt
mọi cuộc thương nghị với Việt Minh, Pháp nhìn về Hương Cảng nơi mà Bảo Đại, cố
vấn tối cao của Chính phủ Hồ Chí Minh thừa dịp đi công cán tại Trùng Khánh, ở
lại đó. Và sau nhiều cuộc vận động và thương nghị của một số đoàn thể chính trị
và tôn giáo, lá bài Bảo Đại được đem ra thí nghiệm.
Ngày 5-6-1948, Hiệp định Hạ Long ra đời, long
trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam cùng sự gia nhập của Việt Nam vào Liên
hiệp Pháp. Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân được chỉ định cầm đầu Chính phủ Lâm thời
để kí kết vào Hiệp định.
Ngày 8-3-1949 Hiệp định Elysée được kí kết xác
nhận lại mối bang giao Việt-Pháp giữa Hoàng đế Bảo Đại và Tổng thống Pháp
V.Auriol. Rồi từ Pháp về Bảo Đại ban hành Dụ số 1 ngày 1-7-1949 ấn định việc tổ
chức và điều hành các cơ quan công quyền Việt Nam. Dụ số 1 này, sau phần lí do
gồm 4 mục: Mục 1: Quốc hội Lập hiến; Mục II: Quốc trưởng; Mục III: Chính phủ;
IV: Hội đồng tư vấn quốc gia.
Sau khi xác nhận rằng “ý chí quốc dân là nguồn
gốc của mọi ngành hoạt động quốc gia, nhưng vì tình hình chiến tranh hiện tại,
ý chí ấy không thể phát biểu một cách tự do được” và trong lúc chờ đợi một Quốc
hội Lập hiến, tổ chức chính quyền ở giai đoạn giao thời, gồm 3 cơ quan; Quốc
trưởng, Chính phủ và Hội đồng Tư vấn Quốc gia.
1. Quốc trưởng –
tức là Bảo Đại – tượng trưng cho Quốc gia có những quyền hạn như các Quốc
trưởng khác như quyền ân xá, quyền chủ tọa Hội đồng Tổng trưởng, quyền cử Đại
sứ hoặc tiếp nhận ủy nhiệm thư v.v… Tuy nhiên có điểm đáng lưu ý là Quốc trưởng
“ấn định chính sách của chính phủ cho chỉ thị về sự hoạt động của chính phủ
trong tất cả các ngành bổ nhiệm và cách chức Thủ tướng và các Tổng trưởng”.
2. Chính phủ:
đảm nhiệm quyền Hành pháp. Thủ tướng Chính phủ điều khiển sự hoạt động của
Chính phủ và chuyên trách điều hòa sự liên lạc giữa các nhân viên Chính phủ
chuyên trách và kiểm soát sự thi hành các Dụ và sắc lệnh.
3. Bên cạnh Quốc
trưởng và Chính phủ, Dụ số 1 còn thiết lập một Hội đồng Tư vấn Quốc
gia, mục đích để quốc dân có thể phát biểu ý kiến một cách hết sức
rộng rãi. Các hội viên Hội đồng Tư vấn Quốc gia “đều do Quốc trưởng ban bố sắc
lệnh tuyển lựa trong các nhân sĩ hoặc đại diện cho dư luận quốc dân, hoặc đại
diện cho các quyền lợi toàn quốc và địa phương hoặc có tài năng xứng đáng”.
Hội đồng Tư vấn Quốc
gia phát biểu ý kiến
về các vấn đề do Chính phủ giao xét. Tuy nhiên, Chính phủ bắt buộc phải hỏi ý
kiến Hội đồng trước khi chấp thuận luật lệ về ngân sách, quy chế tự do cá nhân,
sự cải cách căn bản của nền tảng kinh tế và xã hội, ngoại trừ trường hợp khẩn
cấp hoặc bất khả kháng.
Từ ngày ban hành Dụ số 1 cho đến ngày kí Hiệp
định Genève 20-7-1954 – 5 năm qua tại miền Nam có tất cả 9 chính phủ liên tiếp
nắm chính quyền:
·
Chính phủ Bảo Đại
(2-7-1949)
·
Chính phủ Nguyễn Phan
Long (18-1-1950)
·
Chính phủ Trần Văn Hữu
(6-5-1950)
·
Chính phủ Trần Văn Hữu
II (20-2-1951)
·
Chính phủ Trần Văn Hữu
III (8-3-1952)
·
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm
(15-6-1952)
·
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm
II (1-1-1953)
·
Chính phủ Hoàng thân Bửu
Lộc (12-1-1954)
·
Chính phủ Ngô Đình Diệm
(7-7-1954)
Một sự lạm phát chính phủ như thế chứng tỏ sự
thất bại của giải pháp Bảo Đại. Trong lúc chiến tranh tiếp diễn, càng ngày càng
quyết liệt, lòng dân hướng về cuộc đấu tranh chống thực dân, thì các nhà lãnh
đạo quốc gia, thoát thân từ một giai cấp trưởng giả, liên hệ mật thiết với đế
quốc Pháp, thiếu bản lĩnh, không gây được sự hào hứng cùng đem lại độc lập thực
sự cho quốc gia, lần lần mất cả uy tín. Chính nghĩa kháng chiến chống thực dân,
giành độc lập lọt vào tay Việt Minh. Để rồi sau trận Điện Biên, Pháp phải điều
đình với Việt Minh phân chia lãnh thổ.
Sau Hiệp định Genève, ngoài Bắc theo chế độ
độc tài cộng sản, trong Nam Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập ngày 7-7-1954 tìm
cách truất phế Bảo Đại bằng một cuộc trưng cầu dân ý tổ chức ngày 23-10-1955.
Với uy tín sẵn có thời ấy cùng với một tổ chức khéo léo, Ngô Đình Diệm thâu
lượm kết quả: 5.721.735 phiếu – trong số 5.828.907 công dân đi bầu – biểu quyết
truất phế Bảo Đại và công nhận Thủ tướng Ngô Đình Diệm giữ chức vụ Quốc trưởng.
Dựa trên kết quả này, chính quyền Ngô Đình
Diệm ban hành Hiến ước Tạm thời số I ngày 26-10-1955 nguyên văn như sau:
“Xét rằng kết quả của cuộc Trưng cầu Dân ý
ngày 23-10-1955, đã biểu lộ một cách rõ rệt ý chí của toàn dân Việt Nam muốn
thiết lập nền dân chủ.
Xét rằng trong khi chờ đợi một Hiến pháp được
ban hành, các cơ quan công quyền trong nước cần phải được quy định bởi một Hiến
ước Tạm thời.
Xét rằng chính thể Cộng hòa đã được long trọng
tuyên bố:
TUYÊN BỐ
Điều thứ 1 – Quốc gia
Việt Nam là một nước Cộng hòa.
Điều thứ 2 – Quốc
trưởng, đồng thời cũng là Thủ tướng Chính phủ, lấy danh hiệu là Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa.
Điều thứ 3 – Một ủy
ban được thiết lập để soạn dự án Hiến pháp của Quốc gia Việt Nam. Bản Hiến pháp
này sẽ được đưa ra trước Quốc hội do dân bầu trước cuối năm nay.
Điều thứ 4 – Trong khi
chờ đợi Hiến pháp được ban hành các đạo luật và sắc lệnh hiện hữu vẫn được tạm
thời áp dụng, ngoại trừ những điều khoản nào trái ngược với chính thể Cộng hòa.”
Hai hôm sau, Chính phủ Ngô Đình Diệm thứ hai
được thiết lập với Ngô Đình Diệm Tổng thống kiêm Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng và Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn cố vấn.
Mục II: CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM (1955-1963)
Sau khi truất phế Bảo
Đại và tập trung quyền lực trong tay. Ngô Đình Diệm phát động chiến dịch loại
trừ các đoàn thể độc lập và đồng thời tạo một tổ chức chính trị bán chính thức
mệnh danh là “Phong trào Cách mạng Quốc gia”. Và ngày 4-3-1956 một
cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội Lập hiến. Sau một thời gian thảo luận, dự án
Hiến pháp được Quốc hội Lập hiến chung quyết ngày 20-10-1956 và ngày 26-10-1956
Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, đánh dấu một
giai đoạn lịch sử chính trị Việt Nam. Chúng ta sẽ lần lượt phân tích và nhận
xét Hiến pháp này.
Đoạn 1: PHÂN TÍCH HIẾN
PHÁP 26-10-1956
Hiến pháp 1956 gồm một phần mở đầu và 10
thiên.
A. Phần mở đầu được
soạn thảo dưới hình thức một bản tuyên ngôn xác định sự tin tưởng của Nhà nước
lập hiến:
·
“ở tương lai huy hoàng
bất diệt của quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của Tổ
tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo”;
·
“ở sự trường tồn của nền
văn minh Việt Nam”;
·
“ở giá trị siêu việt của
con người”.
Và ý thức rằng Hiến pháp phải thể hiện nguyện
vọng của nhân dân, nghĩa là:
·
Củng cố Độc lập chống
mọi hình thức xâm lăng thống trị;
·
Bảo vệ Tự do cho mỗi
người và cho Dân tộc;
·
Xây dựng Dân chủ về
chính trị, kinh tế xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị.
B. Về quyền
lợi và nhiệm vụ của công dân, Hiến pháp 1956 đã xác nhận một cách rất
đầy đủ. Có tự do cá nhân như quyền không bị bắt bớ, giam giữ
trái phép, quyền tự do đi lại, tính cách bất khả xâm phạm của gia cư, quyền tự
do hội họp, quyền tự do lập hội, tự do tín ngưỡng được công bố long trọng.
Ngoài ra, một số quyền kinh tế như quyền tư hữu, quyền tổ chức
những hợp tác kinh tế; một số quyền chính trị như quyền bầu
cử, ứng cử, quyền tham gia điều khiển việc công hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp
qua sự trung gian của đại diện; một số quyền xã hội như quyền
tự do nghiệp đoàn, quyền đình công, quyền được cứu trợ khi bị thất nghiệp, già
yếu, bệnh tật, thiên tai, quyền làm việc và hưởng thù lao xứng đáng, quyền được
hưởng một nền giáo dục cơ bản miễn phí, tóm lại một số quyền căn bản của công
dân trong một xã hội dân chủ của thế kỉ hai mươi được công nhận rõ rệt.
Song song với quyền lợi ấy Hiến pháp cũng ghi
một số nhiệm vụ công dân như:
·
Nhiệm vụ tôn trọng và
bảo vệ Hiến pháp và luật pháp;
·
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
chính thể Cộng hòa nền tự do dân chủ;
·
Nhiệm vụ góp phần vào
việc chi tiêu công cộng.
C. Về cơ cấu
chính quyền, Hiến pháp 1956 dành riêng Thiên thứ ba cho Tổng thống và Thiên
thứ tư cho Quốc hội.
1. Quyền Hành
pháp được ủy nhiệm cho Tổng thống dân cử bởi quốc dân. Tổng
thống – có thể nói rằng – là tất cả quyền Hành pháp. Tổng
thống có Phó Tổng thống, các bộ Trưởng và Thứ trưởng phụ tá. Các Bộ trưởng do Tổng
thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước Tổng thống.
Do nhân dân bầu thẳng với nhiệm kì 5 năm, Tổng
thống nắm giữ một số quyền hạn tối quan trọng như:
·
Sáng quyền lập pháp:
Tổng thống có quyền đưa ra Quốc hội xét các dự thảo luật;
·
Quyền gửi thông điệp;
·
Quyền phủ quyết: tức
quyền bác bỏ một đạo luật do Quốc hội chung quyết và yêu cầu Quốc hội phúc nghị
một hay nhiều điều khoản;
·
Quyền hành về quân sự:
Tổng thống là Tổng tư lệnh Tối cao của các lực lượng quân sự;
·
Quyền hành về ngoại
giao: quyền kí kết các điều ước, các Hiệp định quốc tế và quyền bổ nhiệm các sứ
thần.
·
Tất cả các quyền với tư
cách Quốc trưởng và chỉ huy Hành pháp.
2. Quyền lập
pháp được ủy nhiệm cho Quốc hội dân cử. Quốc hội tức là cơ quan Lập
pháp. Chiếu theo điều 55, Quốc hội biểu quyết các đạo luật. Ngoài
ra cần nhấn mạnh thêm rằng Quốc hội chấp thuận các điều ước và
các hiệp định quốc tế, biểu quyết ngân sách quốc gia; có quyền
đề nghị sửa đổi Hiến pháp và tham gia vào việc tổ chức và điều hànhĐặc biệt
Pháp viện, một cơ quan tài phán có thẩm quyền xét xử Tổng thống về các nhân
vật trọng yếu của Quốc gia.
Bên cạnh hai định chế căn bản, Quốc hội và
Tổng thống còn có một số cơ quan như Hội đồng Kinh tế Quốc gia, Thượng Hội đồng
Thẩm phán và Viện Bảo hiến.
Đoạn 2: NHẬN XÉT
Hiến pháp 1956 – thoạt
tiên – có thể xem là một bản văn quy định rõ rệt thẩm quyền các cơ quan quốc
gia và đồng thời ấn định những mối tương quan thực tế hầu đáp ứng với nhu cầu
của thời cuộc. Tuy nhiên nhìn kĩ lại những điều kiện cấu tạo bản Hiến pháp cùng
một số điều khoản đặc biệt, chúng ta có thể quả quyết rằng chế độ quy định bởi
Hiến pháp 1956 là một chế độ quyền uy, khung cảnh của một sự chớm
nở độc tài cá nhân trong thực tế.
A. Trước nhất người ta có thể tự hỏi vì lí do
gì mà nhà Lập hiến ưng thuận cho “đương kim Tổng thống (tức là Ngô Đình Diệm)
sẽ là Tổng thống đầu tiên theo Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa”? Khi mà đã tổ chức được một cuộc trưng cầu dân
ý và một cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội Lập hiến thì người ta không hiểu vì
sao không tổ chức được một cuộc bầu cử Tổng thống chiếu theo bản Hiến pháp mới.
Sự kiện này chứng tỏ sự thiếu tinh thần dân chủ của đương kim Tổng thống.
B. Nhận xét thứ hai liên quan đến điều 98:
“Trong nhiệm kì Lập pháp đầu tiên (tức từ 1956 đến 1959) Tổng thống có thể tạm
đình chỉ sự sử dụng những quyền tự do đi lại và cư ngụ, tự do ngôn luận và báo
chí, tự do hội họp và lập hội, tự do nghiệp đoàn và đình công để thỏa mãn những
đòi hỏi đích đáng của an toàn chung, trật tự công cộng và Quốc phòng”.
Một câu như thế xóa bỏ hết Thiên thứ ba của
bản Hiến pháp! Và chính vì với những quyền rộng như vậy mà chế độ Ngô Đình Diệm
có phương tiện loại trừ các đoàn thể quốc gia độc lập, phát động phong trào suy
tôn mở đường cho một chế độ độc tài cá nhân.
C. Nhận xét thứ ba
liên quan đến chế độ Tổng thống. Một số bình luận gia, khi phê bình Hiến pháp
1956, kết luận rằng Hiến pháp này thiết lập Tổng thống chế theo kiểu Hoa Kỳ.
Đây là một khuynh hướng tối quan trọng cần phải xét lại vì sự thất bại của chế
độ Ngô Đình Diệm làm nhiều người tưởng rằng chế độ độc tài là hậu quả tất nhiên
của chế độ Tổng thống. Thật ra Tổng thống chế Việt Nam năm 1956 không phải là
Tổng thống chế Hoa Kỳ. Trong lúc Hiến pháp Hoa Kỳ cố giữ thế quân bình giữa
các quyền được thiết lập, đặc điểm của hệ thống tổ chức chính quyền theo Hiến
pháp 1956 là ưu thế quá mức của Tổng thống. Và ưu thế này được
thể hiện qua những quyền hành của Tổng thống và nhất là sự can thiệp tích cực
của Hành pháp vào lãnh vực Lập pháp.
Thật vậy, ngay ở điều
khoản thứ ba chúng ta nhìn thấy ”Tổng thống lãnh đạo quốc gia”. Tổng
thống bổ nhiệm và cách chức các sứ thần cùng công chức cao cấp không cần ý kiến
của Quốc hội. Trái với nguyên tắc phân nhiệm mà điều 3 ghi rõ là “Nguyên tắc
phân nhiệm giữa Hành pháp và Lập pháp phải rõ rệt”. Hiến pháp 1956 dành cho
Tổng thống quyền kí sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội, quyền
kí sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm.
Một sự tập
trung quá mức quyền hành cùng sự thủ tiêu đối lập và
sự hiện diện của một chính đảng duy nhất đã đưa chế độ Ngô
Đình Diệm lần lần đi đến một chế độ quyền hành cá nhân áp dụng những phương
tiện chuyên chế mà tiếng súng ngày 1-11-1963 đã đưa vào dĩ vãng.
Mục III: VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG 1-11-1963
Giai đoạn hậu Cách mạng là một giai đoạn quan
trọng đánh dấu một khúc quanh mới mà Việt Nam Cộng hòa cố tìm những công thức
phù hợp với thực trạng – Đồng thời cũng là một giai đoạn bất ổn chính trị thể
hiện trên bình diện pháp lí qua 5 văn kiện căn bản:
·
Hiến ước Tạm thời số 1
ngày 4-11-1963;
·
Hiến ước Tạm thời số 2
ngày 7-2-1964;
·
Hiến chương Việt Nam
Cộng hòa ngày 16-8-1964;
·
Hiến chương Lâm thời
ngày 20-10-1964;
·
Ước pháp Tạm thời ngày
19-6-1965;
Và liên tiếp 5 Chính phủ cầm quyền:
·
Chính phủ Nguyễn Ngọc
Thơ (4-11-1963 – 30-1-1964);
·
Chính phủ Nguyễn Văn
Khánh (8-2-1964 – 20-10-1964);
·
Chính phủ Trần Văn Hương
(31-10-1964 – 27-1-1965);
·
Chính phủ Phan Huy Quát
(16-2-1965 – 12-6-1965);
·
Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ
(19-6-1965).
Một sự lạm phát chính trị như thế rất là tai
hại. Nếu lí do chính là tình trạng của một quốc gia đang phát triển lại phải
chiến đấu một mất một còn với phiến loạn cộng sản, cần phải ghi thêm rằng sự
kiện mà một số tướng lãnh đã lợi dụng danh nghĩa quân đội để thỏa mãn tự ái cá
nhân và củng cố địa vị đồng thời sự bất lực của các tổ chức chính trị và bầu
không khí nghi kị, chia rẽ giữa các đoàn thể là những yếu tố làm dao động cuộc
sinh hoạt chính trị trong vòng 3 năm qua.
Trong khung cảnh đen tối ấy, một cánh cửa đã
hé mở: đó là sự hình thành của Quốc hội Lập hiến với sứ mạng hoàn thành Hiến
pháp tương lai hầu bình thường hóa cuộc sinh hoạt chính trị trên những tiêu
chuẩn vững chắc.
Đoạn 1: SỰ HÌNH THÀNH QUỐC HỘI LẬP HIẾN
Sự thành lập chính phủ Nguyễn Cao Kỳ đánh dấu
một giai đoạn ổn định. Nhưng, nếu thành phần lãnh đạo tương đối ổn định, những
xáo trộn chính trị lại bắt đầu, những phong trào đấu tranh lại chớm nở đôi khi
mang tính cách bài ngoại rõ rệt.
Đặc điểm của thời kỳ xáo trộn này là khẩu hiệu
Quốc hội Lập hiến được tung ra để làm mục tiêu tranh đấu và phản đối tính cách
bất chính đáng của chánh quyền. Trước tình trạng khẩn trương ấy, Ủy ban Lãnh
đạo Quốc gia cho triệu tập Đại hội Chính trị Toàn quốc.
Được triệu tập từ ngày
12-4 đến 14-1-1966 Đại Hội nghị Chính trị Toàn quốc gồm tất cả
117 đại diện các đoàn thể tôn giáo, chính trị, nghiệp đoàn, thanh niên, sinh viên
và Hội đồng Dân cử[4].
Sau 3 ngày thảo luận, trong bản đúc kết trình
bày ngay phiên bế mạc, Đại Hội nghị Chính trị Toàn quốc đề nghị các điểm chính
sau đây:
1.
Cần phải bầu cử Quốc hội
Lập hiến và tổ chức chính quyền dân cử;
2.
Tạo điều kiện thuận tiện
để chuẩn bị bầu cử bằng hai biện pháp: ban hành tự do báo chí và khuyến khích
sinh hoạt chính trị tạo điều kiện thuận tiện cho các chính đảng hoạt động và
liên kết thành những khối lớn ngõ hầu tiến tới một Quốc hội với một đa số vững
chãi;
3.
Phát động một phong trào
xây dựng dân chủ sâu rộng để giáo huấn quần chúng về mặt chính trị;
4.
Thực hiện đại đoàn kết
dân tộc để xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, kiến thiết, công bằng xã hội,
chiến thắng cộng sản, tái lập thanh bình cho Tổ quốc.
Sứ mạng của Đại hội nghị đã hoàn tất. Thật ra,
trước phong trào đấu tranh đòi triệu tập Quốc hội Lập hiến của Phật giáo – Viện
Hóa đạo, trước tính cách chính đáng của một nguyện vọng, Ủy ban Lãnh đạo Quốc
gia, không đường lối vững chắc, không can đảm có một phản đề nghị chín chắn
tình hình. Và ý nghĩa sâu xa của Đại hội – đối với Ủy ban Lãnh đạo – chỉ là cơ
hội để… nhượng bộ trước áp lực ngoài đường. Và sự nhượng bộ này được thể hiện
qua bản sắc luật bầu Quốc hội Lập hiến mà Vị Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia
đọc ngay tại phiên bế mạc của Đại Hội nghị, giữa tiếng vỗ tay hoan hô. Sắc luật
nguyên văn như sau:
Điều 1: Thể theo nguyện vọng của toàn dân, một Quốc
hội Lập hiến sẽ được bầu cử, có nhiệm vụ soạn thảo và biểu quyết Hiến pháp Việt
Nam Cộng hòa.
Điều 2: Quốc hội Lập hiến nói ở Điều I sẽ được thành
lập trong thời hạn từ 3 đến 5 tháng kể từ ngày kí Sắc luật này theo thể thức
đầu phiếu phổ thông trực tiếp và kín trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa.
Điều 3: Ngày bầu cử, số dân biểu, thể thức bầu cử,
quy chế dân biểu, tổ chức và điều hành Quốc hội Lập hiến sẽ được một Sắc luật
ấn định sau.
Sắc luật triệu tập Quốc hội Lập hiến cũng
không làm lắng dịu tình hình chính trị. Mặc dù Phật giáo – Viện Hóa đạo đã biểu
tình – ngay trong ngày – để ăn mừng chiến thắng, bầu không khí lại bắt đầu sôi
động và cuộc tranh đấu của Viện Hóa đạo lại chuyển sang những mục tiêu khác. Và
từ ngày ban hành Sắc luật triệu tập Quốc hội Lập hiến (14-4-1966) đến ngày bầu
cử (2-9-1966) cuộc tranh chấp giữa Chính phủ và Viện Hóa đạo vẫn tiếp diễn,
dưới nhiều hình thức, có tính cách quá trầm trọng đến nỗi Chính phủ phải dùng
võ lực để tái lập uy quyền quốc gia và an ninh công cộng. Rồi – éo le thay! –
chính Viện Hóa đạo, ngày 15-8-1966 đã công khai bầy tỏ lập trường “bất hợp tác
việc bầu cử Quốc hội Lập hiến do chính quyền đương kim tổ chức”.
Tuy nhiên toàn dân đã
nô nức đi bầu. Mặc dầu chưa hẳn là giải pháp duy nhất để giải quyết khủng hoảng
chính trị, cần phải thành thật nhận định rằng cuộc bầu cử Quốc hội Lập
hiến ngày 11-9-1966 là một thắng lợi lớn. Thắng lợi về mặt an ninh vì
các lực lượng bảo vệ an ninh đã chứng minh khả năng trong việc bảo vệ dân chúng
chống chiến dịch khủng bố của Việt Cộng. Thắng lợi về mặt chính trị vì dân tộc
Việt Nam đã chứng tỏ rằng họ không thờ ơ với quốc sự nếu họ có dịp phát biểu ý
kiến.
Bảng Tổng kết bầu cử
Quốc hội Lập hiến 11-9-1966
Số dân biểu: 117
(trong số này gồm cả 4 dân biểu gốc Miên và 9 dân biểu gốc Thượng, Chàm và
Thượng du Bắc Việt di cư)
(Theo tài liệu của Phủ
Đặc ủy Hành chánh)
Đoạn 3: QUỐC HỘI LẬP
HIẾN 1966
Khai mạc long trọng ngày 27-9-1966 với
tất cả ước vọng. Quốc hội Lập hiến bắt tay vào việc soạn thảo cơ cấu căn bản
của Quốc gia.
A. Những đặc
tính của Quốc hội Lập hiến
1. Quốc hội Lập hiến có thể xem là một
Quốc hội trẻ. Tuổi trung bình là 40. Phân tích tuổi các dân biểu, chúng ta có
thể chia như sau:
* Từ 25 đến 35 tuổi: 41 vị;
* Từ 36 đến 45 tuổi: 35 vị;
* Từ 46 đến 55 tuổi: 28 vị;
* Từ 56 đến 65 tuổi: 13 vị.
2. Về thành phần xã hội, các bác sĩ, dược sĩ,
kĩ sư và công chức chiếm đa số.
Thành phần xã hội của
dân biểu Quốc hội Lập hiến
·
Nghề tự do (gồm kĩ sư,
dược sĩ, bác sĩ, luật sư, giáo sư, chủ báo, kí giả): 37;
·
Thương mại: 9;
·
Nông nghiệp: 6;
·
Công chức: 38;
·
Hội viên Hội đồng dân
cử: 16;
·
Linh tinh (công chức, sĩ
quan hồi hưu, ban trị sự giáo hội, đại diện Fulro, chánh tông v.v…): 11
3. Phân tích theo miền,
thành phần dân biểu chia ra như sau:
* Nam: 49 vị;
* Trung: 36 vị (29 vị đắc cử trại Trung phần
và 7 đắc cử nơi khác);
* Bắc: 32 vị.
3. Về phương diện chính
trị, vấn đề trở nên phức tạp hơn. Trên nguyên tắc, đối với một nhà quan
sát, tư cách ứng cử viên, các chính đảng và chương trình ứng cử là một yếu tố
quan trọng trước ngày bầu cử. Tại Việt Nam, vấn đề không được đặt ra như vậy.
Trong số 117 dân biểu đắc cử, nếu chúng ta nhìn lại tư cách ứng cử của các vị
ấy trước ngày bầu chúng ta thấy có:
·
93 vị ứng cử với tư cách độc
lập;
·
13 vị ứng cử với tư cách cá
nhân;
·
2 vị ứng cử với tư cách Việt
quốc;
·
7 vị ứng cử với tư cách Giáo
phái (Hòa Hảo, Cao Đài);
·
2 vị ứng cử với tư cách đại
diện Fulro.
Tư cách độc
lập và tư cách cá nhân khác nhau ở chỗ nào? Rất khó
mà trả lời. Nếu không gì trở ngại cho rằng độc lập và cá nhân là một, chúng ta
có thể kết luận rằng vấn đề chính kiến, vấn đề chính đảng, tóm lại vấn đề chính
trị thuần túy cố ý bị lãng quên để nhường bước cho uy tín và cảm tình cá nhân.
Trong điều kiện ấy, mầu sắc chính trị của Quốc
hội Lập hiến trở nên khó hiểu. Vẫn biết rằng đã có 4 khối dân biểu:
·
Khối Liên minh Dân chủ: 46
dân biểu;
·
Khối Đại chúng: 22 dân
biểu;
·
Khối Phục hưng Miền Nam:
12 dân biểu;
·
Khối Độc lập: 16 dân
biểu.
và 21 trong tình trạng
“độc lập”. Các vị này đã tách khỏi Khối Đại chúng vì bất đồng ý
kiến về số lập trường chính trị.
Tuy nhiên cần phải nhận định rằng xuyên qua
hoạt động của các khối, chúng ta thấy kỉ luật nội bộ không được chặt chẽ cho
lắm và không một tài liệu nào chứng minh một cách xác thực sự khác biệt về
chính trị giữa các khối dân biểu.
B. Hoạt động của Quốc
hội Lập hiến
Cho đến ngày 1-3-1967
Quốc hội Lập hiến đã tuần tự biểu quyết chấp thuận trên 80 điều khoản trong số
135 điều của bản dự thảo Hiến pháp. Các nét chính của chế độ chính trị tương
lai của Việt Nam đã được phác họa. Tuy nhiên hãy còn sớm để có thể phê bình vì
Quốc hội còn phải biểu quyết toàn bộ lại và hiện giờ khó tiên đoán
được rằng quyền phúc nghị của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia sẽ áp dụng hay không và
đến mức độ nào. Và chính vấn đề này là then chốt.
Thật vậy, có thể nói
rằng Quốc hội Lập hiến luôn luôn bị ám ảnh bởi điều 20 của Sắc luật ngày
16-6-1966 ấn định tổ chức Quốc hội Lập hiến. Điều 20, đoạn 2 quy
định như sau:
“Trong thời hạn ban hành, Chủ tịch Ủy ban Lãnh
đạo Quốc gia có thể yêu cầu Quốc hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản đã được
Quốc hội biểu quyết. Nếu Quốc hội không đồng ý sửa đổi theo yêu cầu của Chủ
tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia thì Quốc hội sẽ chung quyết bằng một cuộc minh
danh và đích thân đầu phiếu với đa số hai phần ba (2/3) tổng số dân biểu. Nếu
đa số 2/3 trên đây không đạt được, bản tu chính của Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo
Quốc gia đương nhiên coi như chung quyết.”
Quốc hội Lập hiến đã yêu cầu tu chính điều 20
này, viện hai lí do:
1. Lí do thứ nhất: Quyền lập hiến là một quyền nguyên thủy do
quốc dân ủy thác cho Quốc hội Lập hiến. Trên nguyên tắc, với tư cách nguyên thủ
quốc gia, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia chỉ có quyền phủ quyết một đạo luật
chớ không được sử dụng quyền này đối với một bản Hiến pháp đã được Quốc hội Lập
hiến chung quyết. Hơn nữa trong trật tự pháp lí hiện tại ấn định bởi Ước pháp
Tạm thời ngày 19-6-1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia chỉ có quyền Lập pháp và
quyền Hành pháp mà thôi.
2. Lí do thứ nhì: Có lẽ khi ban hành Sắc luật, Ủy ban Lãnh đạo
Quốc gia ngại sự len lỏi của các phần tử cộng sản hoặc trung lập vào Quốc hội
Lập hiến nên dùng điều 20 phòng ngừa. Sự lo ngại rất chính đáng ấy không còn lí
do tồn tại nữa vì thành phần Quốc hội Lập hiến gồm toàn các nhân vật quốc gia
chân chính có lập trường chống cộng vững chắc.
Trên đây là hai lí do chính mà Phái đoàn Quốc
hội Lập hiến đã trình bày cùng Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia trong cuộc tiếp xúc
ngày 18-11-1966. Phản ứng của chính quyền được thể hiện qua bức thông điệp của
Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia gửi ông Chủ tịch Quốc hội Lập hiến ngày
26-12-1966.
Trong bức thông điệp, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo
Quốc gia không đề cập trực tiếp đến những luận cứ của Quốc hội Lập hiến mà chỉ
khẳng định rằng:
·
Sự kiện mà ứng cử viên
đắc cử cũng như thất cử và đại đa số đồng bào với tỉ lệ 80% đã hăng hái tham
gia tổng tuyển cử đương nhiên chứng minh họ đã chấp nhận Sắc luật ngày
19-6-1966.
· Sửa đổi Sắc luật căn bản
đã được 80% nhân dân chấp nhận cách đây chưa đầy ba tháng sẽ làm cho chúng ta
mang tiếng thất tín cùng đồng bào cử tri toàn quốc.
Vấn đề chưa giải quyết! Mặc dù đa số dân biểu
đứng dậy giơ tay “Xin thề quyết tâm bảo vệ bản Hiến pháp mà chúng ta sẽ hoàn
thành” trong phiên họp ngày 29-12-1966, cuộc tranh chấp sẽ tiếp diễn và liên
quan mật thiết đến nội dung bản Hiến pháp tương lai…
(Còn tiếp)
Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học.
In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.
[1] Tức Hiroshima ngày 06/08/1945 (p&c)
[2] Tức Nagasaki ngày 09/08/1945 (p&c)
[3] Có lẽ đó là ngày 17/08/1945. ( p&c)
[4] Thật ra chỉ có lối 100 vị tham gia Đại
hội. Và sự vắng mặt được chú ý nhất là đại diện của Giáo hội Phật giáo Thống
nhất. Chỉ trong buổi bế mạc một nhân sĩ Phật giáo – ông Trần Quang Thuận – có
đến nhưng tuyên bố không phải là đại diện chính thức của Giáo hội Phật giáo
Thống nhất.