Suốt mấy ngàn năm qua Việt Nam đã từng bị phương Bắc xâm lấn, thôn tính
rất nhiều lần nhưng chưa bao giờ tình trạng lại như hiện nay: Xâm lấn mà như
không xâm lấn, thôn tính mà như không thôn tính, nước mất mà như chưa mất, dân
muốn phản đối quân xâm lược phương Bắc lại bị chính quyền ngăn cấm,…Tuy nhiên nếu chỉ bức
xúc, căm phẫn sự ngang ngược, thâm độc của quân xâm lược hay mắng mỏ sự nhu nhược, trắng trợn của kẻ bán
nước thì cũng không khác gì ngồi mắng chửi quân bất lương: “Sao ngươi lại vô
lương thế?” Trong một bài gần đây, tác giả Hà Sỹ Phu đã viết: “Nếu phía quyền lực đã dùng phương pháp che
đậy, ngụy trang, mơ hồ, chung chung…mà phía phản biện cũng chơi đúng theo cách
ấy thì thua! Trong bóng đá người ta bảo thế là “bị áp đặt lối chơi”, phải hết sức tránh.” Suy cho cùng, mọi sự
thụ động và phụ thuộc trong các cuộc đấu tranh giành tự do đều không thể dẫn
đến tự do, dù là cuộc chiến giữa quốc gia-kẻ xâm lược hay cuộc đấu giữa nhân dân-chính quyền độc tài. Như Cây
Tre Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết vừa nói:
Giải “Cộng” nhi thoát ! ( 解共而 脱 Bỏ Cộng sản thì thoát)
Hà Sĩ Phu
Trong “Thư gửi người đang yêu” nhà văn Phạm Đình Trọng đã nói với những bạn bè còn vương vấn chút “yêu đương” với Chủ nghĩa Cộng sản, rằng chủ nghĩa Cộng sản mà học thuyết Mác-Lê vạch đường là một chủ nghĩa sai lầm, chỉ gây ra tội lỗi với đất nước, không thể sửa chữa mà chỉ có cách duy nhất là xoá bỏ tận gốc.
Có một thực tế là trong
nước cũng không ít người đã suy nghĩ gần
giống như vậy nhưng còn đắn đo chưa nói hết ra thôi. Nhưng kẻ xâm lược đâu có
chờ ta, chúng cứ khẩn trương lấn tới, ngày một nguy hiểm. Nay quân xâm lược đã
riễu binh đến sát cửa nhà, thậm chí vào rất sâu trong nội tình, nội địa.Trước
tình hình ấy, nhiều Blogger đã bày tỏ ý kiến rốt ráo quyết liệt hơn trước. Tôi
xin liên kết nhiều ý kiến về lý luận và thực tiễn đã có trên công luận, từ gốc đến
ngọn, nói gọn lại cho rõ ràng hơn.
1/ Nhận thức
về chủ nghĩa Mác-Lê đã xong về LÝ LUẬN:
Chủ nghĩa Mác-Lê [1] là một lý thuyết muốn làm điều tốt nhưng nội dung
tư duy lại phi khoa học, hoang tưởng, nên sau những phấn khích ban đầu, cuối
cùng chỉ tạo ra những xã hội phi lý, đảo ngược luân thường, kìm hãm và phá nát
xã hội, tạo những cơ hội bằng vàng cho những kẻ cơ hội chính trị lợi dụng nhảy
lên thành những bạo chúa mới, và gây những tai hoạ cực lớn cho nhân loại, vì thế
cần phải vứt bỏ.
Trải hơn một thế kỷ và trên phạm vi toàn nhân loại, đến nay nhận thức khoa
học đào thải chủ nghĩa hoang tưởng ấy đã hoàn tất. Quanh vấn đề phê phán chủ
nghĩa này bây giờ nói gì cũng chỉ là lặp lại ( hoặc nhai lại) những điều đã
giải quyết xong. Với một chân lý đã hiển nhiên thì mọi lý luận dài dòng đều là
thừa. Chân lý đã có ( căn cứ vào nhân loại văn minh) thì mặc nhiên sử dụng đâu
cần chứng minh lại? Chân lý nằm ở cộng đồng nhân loại 200 nước, trong đó có tất
cả những những nước tiêu biểu nhất cho tri thức nhân loại, hay nằm ở 4 nước
Cộng sản tàn dư đang cố biến thái để tồn tại?
Với người có tim óc bình thường, chân lý ấy khỏi cần bàn cãi. Còn với
những luận điểm “chày cối” thì vấn đề lại sang một bình diện khác, không còn ở
lý luận khoa học, càng lý luận khoa học bao nhiêu lại càng vô ích bấy nhiêu.
2/
Vấn đề Mác-Lê chưa xong trong thực tế
Việt Nam.
Mặc
dù chân lý đã hiển nhiên, nhưng ở Việt Nam, với 3 “típ” người này thì chân lý
ấy vẫn cứ “có vấn đề” để tranh cãi mãi không dứt:
- Những
người quá yếu về tư duy khoa học nên lạc hậu về nhận thức,
- Những
người có tư duy nhưng còn nặng duy cảm hơn duy lý, nên lúng túng chưa biết xử
lý ra sao với gánh nặng tình nghĩa và di sản trong quá khứ
- Những
kẻ cố tình cãi chầy cãi cối vì mục đích duy lợi.
Tổng số 3 “típ” người này đang còn rất đông và còn chi phối xã hội, nên
trong thực tế câu chuyện Mác-Lê chưa thể chấm dứt.
Tùy theo mức độ và động cơ khước từ chân lý mà họ có thể còn những nét
đáng yêu, đáng thông cảm, hoặc đã thành đáng trách, đáng giận, hoặc đáng ghét.Với
những trường hợp ấy hoặc chỉ cần nói ngắn gọn, chỉ nói vào những chuyện thực tế,
hoặc phải ứng xử bằng cách khác, tuyệt nhiên không cần lý luận bài bản dài dòng
như một đề tài triết học chuẩn mực cho phí công.
Lại có người suy nghĩ đơn giản : Chính ĐCS ngày nay thực chất có theo
Mác-Lê nữa đâu, ta nói Mác-Lê nữa làm gì?
Xin thưa, ĐCS chỉ bỏ một phần trong “Mác Kinh tế” thôi, đâu có bỏ lề lối chuyên
chính Mác-Lênin-Staline trong hệ thống chính trị? ĐCS còn cần đến Mác-Lê cả về
danh nghĩa lẫn nội dung.
Chủ nghĩa Mác-Lê (và dẫn xuất là
tư tưởng Hồ Chí Minh) vẫn là cơ sở để một đảng CS độc quyền có thể tồn tại, vẫn là yêu
cầu có tính chất sinh-tử để duy trì một xã hội với nhiều điều ngang trái như
hiện nay, mất nó điều 4 Hiến pháp sẽ không có lý do tồn tại, đảng phải giữ nó
như giữ con ngươi của mắt mình chứ không phải chỉ là cái vỏ hờ bên ngoài. Có
điều là cái mà người ta cần đặt lên bàn thờ để sử dụng chưa hẳn đã là cái người
ta coi là thiêng liêng (như sẽ nói thêm ở phần sau).
Thực chất khẩu hiệu “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”
không phải nhằm cái đích XHCN xa xôi mà
ai cũng biết là không có thật, mà phải hiểu một cách thiết thực đó là “Kinh tế thị trường kiểu Cộng sản”. “, tức
là quá trình“tư bản hóa theo những bài bản
có lợi nhất mà giới CS chóp bu độc quyền mong muốn ”, là dùng chuyên
chính Vô sản độc tôn để độc quyền tích lũy tư bản,
không loại trừ quyền buôn bán tài nguyên và lãnh thổ quốc gia. Chừng nào quá
trình tư bản hoá ấy đã xong thì cái vỏ Mác-Lê sẽ hết tác dụng, và buộc phải hết
tác dụng, nếu không thì những nguyên lý “có áp bức thì có đấu tranh” và “đào mồ
chôn Tư bản” sẽ quay ngược mũi dùi vào chính giai cấp Tư bản đỏ do Mác-Lê đẻ
ra.
3/ Vua đã cởi truồng, dân làm sao
còn giữ “Lễ” ?
Tại sao sự giả dối lại phát triển thành căn bệnh phổ biến và trầm kha
như hiện nay?
Một chủ nghĩa phi khoa học lại muốn được mọi người tôn vinh là duy nhất
khoa học để cả xã hội tuân theo thì đương nhiên phải lừa bịp, kết hợp với bạo
lực áp đặt. Nhưng trong hai biện pháp đó thì cách lừa bịp, nguỵ biện, giả khoa
học để ngụy tạo sự “tự nguyện” mới là chủ yếu, là sở trường, còn bạo lực với
nhân dân chỉ là phương án 2, phương án bất đắc dĩ.
Nhưng sang giai đoạn mạt kỳ,
thực tế đã phơi bày hết thảy, sự mị dân mất tác dụng, thì phương án 2 dần trở
thành chủ yếu, các ĐCS phải bỏ sở trường dùng sở đoản là dùng bạo lực với nhân
dân. Uy tín không còn, chính danh không còn, ngai vàng còn giữ được nhờ hết vào
đội KIÊU BINH khổng lồ, rải khắp hang cùng ngõ hẻm.
Công
an thì ngang nhiên tuyên bố “chỉ biết
còn Đảng còn mình”, quân đội chẳng những
tuyên thệ trung với Đảng mà còn tuyên
bố nhân dân nào theo đảng mới được coi là
nhân dân! Tóm lại, dưới gầm trời
Việt Nam thì công an, quân đội đã là của đảng mà dân cũng là của đảng luôn (nếu
không chấp nhận điều ấy thì thành thù địch).
Kiêu binh vừa gắn chặt với Đảng của
xã hội đỏ lại vừa công khai đi sóng đôi với côn đồ của xã hội đen trước thanh
thiên bạch nhật, kiêu binh thản nhiên làm điều vô pháp luật, luật là tao, tao
thích bắt là bắt cần gì phải lệnh, kiêu binh đánh chết người nếu thích, kiêu
binh sẵn sàng văng cả
đồ dơ vào mặt những vị đương quyền tối cao của họ nếu cần
thiết…, khi kiêu binh đã muốn ra oai với dân thì mặt mũi các quan đương triều cũng
chẳng là cái đinh gì, vì họ thừa biết lúc này ai đang cần đến ai?
Phơi hết sự tàn bạo bất cận nhân tình không cần che đậy, đấy là sự tự
bóc trần, tự “khoả thân chính trị” của chế độ
chuyên chính trong nước. Đồng thời, sự chuyên chính trong thế giới Cộng sản với
nhau cũng “khoả thân” luôn không che đậy:
việc chính thức thành lập thành phố biển Tam Sa với đầy đủ quy chế hành chính
và quân sự, việc kêu gọi đầu tư ngay trong thềm lục địa đương nhiên của Việt
Nam, đưa 23.000 tàu đánh cá tràn vào vùng biển Việt Nam…đã tự lột trần cái bản
mặt giả dối của chủ nghĩa quốc tế Cộng
sản đến mức không còn một chút lá nho, cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt,
và cuộc thi ca khúc Việt-Trung và lời kêu gọi tri ân kẻ xâm lược cũng trở nên
trơ trẽn, hèn hạ không thể chấp nhận. Làm những điều quá hạ sách ấy, cả thế
giới Mác-Lê như muốn thách thức công luận rằng “ông vô lý, ông tàn bạo, ông ngang ngược thế đấy, ông cứ làm trái ý dân,
cứ làm trái công pháp quốc tế thế đấy làm gì được ông”? .
Thế là Vua đã cởi truồng tồng
ngồng giữa phố như trong truyện ngắn Andersen mà hết thảy vẫn cứ đeo mặt nạ để ca
ngợi bộ áo choàng quang vinh vô địch muôn năm ! Thực chất chế độ Cộng sản chỉ
là một
chế độ phong kiến biến tướng [2], nên suốt nửa thế kỷ nay, dù oan ức
đến mấy người dân vẫn phải cư xử, ăn nói nhỏ nhẹ cho phải đạo, nói có chỗ dù
không bao giờ được trả lời, chỉ nói râu ria cấm nói vào chỗ phạm. Ngay cả khi
có báo chí “lề trái” ở trong nước thì lúc đầu cũng chỉ dám nói vào những việc
cụ thể, không chạm đến Đảng, nếu muốn chạm đến gốc rễ của chủ nghĩa và lãnh tụ
thì nói theo kiểu “ám chỉ” xa xôi nhưng ai cũng hiểu…Tất cả những sự đeo mặt nạ
giả dối ấy chẳng qua là giữ LỄ trong một thể chế phong kiến cho phải đạo, ăn nói
ra vẻ cung kính nể nang nhưng trong lòng đã hết tin yêu rồi.
Trò
xiếc dối trá lẫn nhau, cố giữ bộ mặt đúng
quy cách ấy không thể kéo dài mãi. Phía vua quan đã “khoả thân tới số” thì
dân chúng còn cung kính giả vờ sao được? Dùng súng hoa cải uy hiếp kẻ cưỡng chế
đất, bắt nhốt Công an để hỏi cung, phụ nữ liều mạng khoả thân để giữ đất…vânvân…là
những hành động “phá cách”! (Nhưng mẹ
con bà Lài đã lầm, cái giới hạn nhân cách truyền thống mà bà tưởng là ranh
giới phòng vệ cuối cùng thì trong thế giới của những Nguyễn Trường Tô-Hô đâu có
giá trị gì?).
Đến
giai đoạn này thì các Blogger trong nước cũng không giữ Lễ nữa: không cần ám chỉ
mà kể thẳng tên người tên việc dù là thủ tướng hay tổng bí thư, hay Bộ Chính trị.
Mác-Lê không còn là điểm nhạy cảm phải kiêng, lại còn nghi ngờ rằng Đảng và nhà
nước có định chống xâm lược thật không (hay đã đồng tình với giặc xâm lược?),
coi chính quyền chỉ là một đám cướp lớn phản động đã rõ ràng …
Một
Blogger tối thân cận với trùm chuyên chính Vô sản đã gọi Hồ Chí Minh là ”Ku
Nghệ” mà không bị khiển trách thì đủ biết trong hậu trường họ đối với cụ Hồ
cũng chẳng thành kính gì. Lại xuất hiện Blog quanlambao (là tiếng nói của nội bộ Đảng,
phe Chỉnh đốn đảng chống phe Tham nhũng)
chửi thẳng như tát nước vào mặt đương kim Thủ tướng còn hơn đánh kẻ thù mà
không bị trừng trị.
Những
ranh giới cũ đã bị phá hết. Một giai đoạn đối thoại mới, bằng ngôn ngữ khác trước,
đã bắt đầu. Phía Đảng và nhà nước đã dùng “NGÔN NGỮ” mới (gồm cả ngôn ngữ báo
chí và ngôn ngữ hành động) thì nhân dân cũng dùng “ngôn ngữ” mới tương xứng. Vua đã cởi truồng, sao Dân còn giữ Lễ mãi được?
Tinh thần nói đúng sự thật, nói hết sự thật đang sang một chất lượng mới..
Cuộc
đối thoại mới đã bớt đi rất nhiều mặt nạ phù phiếm để đến gần với sự thật hơn,
bổ ích hơn, khẩn trương hơn, hiệu quả hơn. Những lời mạn đàm này gửi đến bạn bè
cũng trên tinh thần mới và ngôn ngữ mới ấy.
Một khía cạnh khác của nhu cầu
nói thật là nhu cầu về phương pháp. Nếu phía quyền lực đã dùng phương pháp che đậy,
nguỵ trang, mơ hồ, chung chung…mà phía phản biện cũng chơi đúng theo cách ấy
thì thua! Trong bóng đá người ta bảo thế là “bị áp đặt lối chơi”, phải
hết sức tránh. Lúc đầu nói thật quá e sẽ bị quy chụp nên phải thủ thế, nhưng
nay đã khác.
4/ Tình hình đã quá chín muồi cho một
cuộc xâm lược.
Khi
Trung quốc chính thức thành lập thành phố Tam Sa (gồm 2 quần đảo HS và TS của
Việt Nam) và đưa 23.000 tàu đánh cá vào vùng biển VN nhiều người gọi hành động ấy
là liều lĩnh và lấy làm ngạc nhiên Thực ra không đáng ngạc nhiên và Trung Quốc
không hề liều lĩnh khi đã thiết kế chiến lược một cách vững chắc và tính toán cụ
thể chắc ăn trăm phần trăm.
Do
vị trí địa-chính trị nên Việt Nam trở thành cửa ngõ mà chủ nghĩa Đại Hán buộc phải
chiếm lĩnh để bành trướng về phía nam, nhưng Việt Nam trước đây đã kiên cường
và mưu lược, phá tan mộng xâm lăng ấy của Trung Quốc.
Bất
hạnh thay, sự xuất hiện trào lưu Quốc tế Cộng sản hoang tưởng đã cung cấp cho
Trung Quốc một cơ hội bằng vàng. Họ tận dụng những đặc trưng của Cộng sản để đưa
con mồi vào lưới. Con mồi tự tìm đến cái bẫy, nhưng bị tấm màn “Quốc tế đại đồng” che mắt, nhìn cái bẫy
thành chốn ruột thịt nương thân. Những năm 1949-1950 khai thông biên giới Việt
Trung, một VN đã kiệt lực buộc phải dựa hẳn vào Trung Quốc để có sức đánh nhau
với Pháp, những món hàng viện trợ từ vũ khí, quân trang quân dụng đến nhu cầu
dân sinh là khởi đầu những trói buộc có tính chiến lược, là sợi dây
thòng lọng đầu tiên, tận dụng những quan hệ thân thuộc của những người
lãnh đạo đã có với Trung Quốc làm sợi dây liên kết.
Cái
thòng
lọng thứ hai là do chuyến ngoại
giao cầu hòa của Việt Nam diễn ra tại Thành Đô ngày
3-4/9/1990. Xét trong quan hệ có tính lịch sử giữa 2 kẻ thù truyền kiếp
thì cuộc cầu hòa này chính là cuộc tuyên bố đầu hàng. Với hiệp ước Thành Đô (nhất
định lịch sử sau này sẽ bạch hoá) Trung Quốc đã tẩy rửa được dấu vết chống
Trung Quốc của Việt Nam tượng trưng bởi ý chí chống Tàu cứng rắn của Tổng Bí thư Lê Duẩn
và cuộc chiến biên giới 1979. Sau hội nghị Thành Đô kế hoạch xâm lược đã thiết
kế xong những nước cờ căn bản.
Từ
đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một lần Trung Quốc khống chế người cầm đầu Việt Nam ,
tức Tổng Bí thư đảng, là đủ cho kế hoạch xâm lược tiến hành trôi chảy. Muốn vậy phải
giữ cho Việt Nam yên vị theo chế độ Cộng Sản, không được dân chủ hoá, không được liên
kết chiến lược với Hoa Kỳ.
Kết quả của chủ trương liên kết chiến lược với Trung Quốc và liên
kết lửng lơ với Hoa Kỳ là đã tạo những “điều kiện cần” và “điều kiện
đủ” cho cuộc thôn tính Việt Nam một cách hoà bình. Điều kiện “cần” là một bộ
máy lãnh đạo Việt Nam phải là bộ máy thân thiện Trung Quốc, không coi Trung quốc
là xâm lược, đồng thời nhân dân Việt Nam
thì tinh thần bạc nhược, không quan tâm đến sự đe doạ của Trung quốc, chấp nhận
để “Đảng và Nhà nước lo”. Điều kiện “đủ” là làm sao khống chế được sự phản
kháng của lực lượng tinh hoa là những người Việt còn giữ được sự cảnh giác và
lòng quyết tâm bảo vệ đất nước, không cho họ đánh thức được dân chúng, đồng thời
Hoa Kỳ và quốc tế không can thiệp.
Khi ĐCSVN đã cam kết với ĐCS TQ thực hiện
đủ những điều kiện ấy, thì (xin lỗi) chỉ một Trung Quốc ngu mới không tiến hành
xâm lược Việt Nam.
Giữa
lúc quân xâm lược kéo binh mã rầm rập vào trong biên cương Tổ quốc mà các thủ lĩnh
tối cao thì im phăng phắc, nhưng ra lệnh cho khắp nơi hát vang lời hữu nghị và tri ân, cho tướng lĩnh
đứng ra tay bắt mặt mừng, và ra sức bắt giữ những người phản đối xâm lược! Cảnh
tượng diễn ra như một trận công thành được chuẩn bị chu đáo, có nội công, vô hiệu hóa lính gác, vô hiệu được
quân lính trong thành, lại tổ chức sẵn một đội kèn trống chào mừng, nghênh đón
sứ quân của thiên triều. Tất cả như có sự phân công, phối hợp trong ngoài vậy.
Chẳng trách người dân phải đặt thẳng sự nghi ngờ vào lòng dạ của người cầm vận
mệnh đất nước:
“Nguy cơ mất nước là hoàn toàn có thật. Đến lúc này nhân
dân buộc phải hỏi: Đảng và Nhà nước có thực sự muốn chống xâm lược không? “
(Cả đến việc
thông qua Luật biển, làm nức lòng nhiều người , nhưng tiến hành song song với
những động tác ve vãn kẻ xâm lược và cấm dân biểu tình thì có đáng tin không
hay chỉ là “đánh trận giả” để đánh lừa dân chúng, giúp kẻ địch tiến thêm một
bước nguy hiểm?).
Thiên
vạn cổ chưa có trận chiến nào được bố trí vẹn toàn như thế, sao lại bảo cuộc tấn
công ấy là liều lĩnh được? Chiến thắng
trong tầm tay, an toàn 100% như thế mà không tiến công thì Trung Quốc ngu à?.
5/ Giải Cộng
nhi thoát! Có từ bỏ Mác-Lê cùng với cái gọi là XHCN mới cứu được nước!
Xem như vậy thì suốt từ 1950 tới nay (2012), tất cả những thiết kế chiến
lược và thực thi từng bước chiến thuật cho sự thôn tính Việt Nam kiểu mới của
Trung Quốc đều phải dựa trên một nhân tố trung tâm và quán xuyến là đảng Cộng sản,
thiết chế Cộng sản, và quan hệ Cộng sản. Việt Nam nếu không là Cộng sản thì Trung
Quốc hoàn toàn bó tay.
Vậy, theo lô-gích, đáp số của bài toán phòng thủ đất nước trước nạn Tân
Bắc thuộc đã hiện ra rõ mồn một. Một Việt Nam 90 triệu dân, dân chủ pháp quyền
phi Cộng sản, có bầu bạn khắp năm châu, chẳng có lý gì phải nằm trong vòng tay
“ôm ấp” của Trung Quốc thì anh bạn khổng lồ xấu tính buộc phải nhớ đến những
Chi lăng, Bạch đằng, Đống đa mà chìa bàn tay hữu nghị giao thương với sự bình đẳng
và kính nể.
Truyện kể rằng: Tướng nhà Minh Lưu Bá Ôn vào thăm mộ Khổng Minh, mặc
giáp sắt khi đi qua cổng lát bằng nam
châm liền bị hút chặt xuống đất. Lưu Bá Ôn đang luống cuống bỗng ngước nhìn lên
thấy một bức hoành trên đề bốn chữ "Giải y nhi thoát" 解 衣 而 脱 (Cởi áo ra thì thoát) bèn làm theo …
Nay chủ nghĩa Mác-Lê đối với ĐCSVN cũng chỉ như chiếc áo giáp sắt, mặc
vào là bị thanh nam châm khổng lồ Trung quốc hút chặt, không ngẩng lên được. Giải Cộng nhi thoát
解共而 脱, là cách tự cứu duy nhất, đẹp lòng dân tộc, và vẹn cả
đôi đường.
KẾT LUẬN : GIỜ NGUY BIẾN ĐÃ ĐIỂM !
1/ Trước
mắt, muốn cứu nước, dân ta cần phá cho được cái chiến lược “diễn biến hoà bình” trong
quan hệ Trung-Việt, mà thực chất là xâm lược hoà bình và làm mất nước một cách hoà bình! Họ muốn đô hộ một
nước khác mà không cần gây một cuộc chiến tranh xâm lược, kế hoạch thật là thâm
độc!
Chiến lược xâm lược hoà bình này do nhà cầm quyền Tân Đại Hán khởi thảo
và áp đặt, ĐCSVN tự sa vào thế kẹt buộc phải làm theo. Hai đảng thoả thuận kín,
quyết định số phận của Việt Nam là nước nhỏ hơn, nhân dân cả hai nước đều được
sử dụng như những công cụ.
Chỉ có nhân dân Việt Nam mới giúp được ĐCSVN ra khỏi thế bị kìm kẹp
này. Nhưng muốn vậy ĐCS phải dũng cảm chịu đau một chút, khiêm nhường một chút,
giảm đi một chút lòng “kiêu ngạo cộng sản” vô lối, để thừa nhận nhân dân, để “lột xác”, thoát khỏi
chủ nghĩa hoang tưởng phản tiến hoá để trở về với dân tộc, tìm lại sự vinh
quang chính đáng trong niềm kiêu hãnh chung của cả dân tộc.
Bằng sự gặm nhấm của chiến lược Việt-Trung hữu hảo diễn biến hoà bình, “cái ổ chim đại bàng” mà tổ tiên ta
gây dựng đang từng ngày từng giờ chật hẹp dần lại một cách toàn diện, thành “cái tổ con chim chích” như vua Trần Nhân
Tông đã lo trước nhiều thế kỷ. Hoạ mất nước đã nhỡn tiền!
Không nhân dân nào thích chiến tranh, nhưng lời QUYẾT CHIẾN, chứ không
HÒA, của Hội nghị Diên Hồng là vết son trong lịch sử. Hoà bình là quý, nhưng
hoà bình để mất nước êm như ru là thứ hoà bình đáng nguyền rủa, không thể so với
sự diễn biến hoà bình để tự chuyển
hóa thành một nước dân chủ văn minh, chính là thứ hòa bình công chính và kiêu
hãnh, không kẻ nào chống được.
2/ Về căn
bản và lâu dài , xuất phát từ nhu cầu xây
dựng đất nước cũng như từ yêu cầu bảo vệ đất nước khỏi hiểm họa Bắc thuộc, xã hội Việt Nam phải từ giã ảo tưởng Cộng
sản, trở về một chế độ dân chủ lành mạnh thông thường như các nước văn
minh, không có con đường nào khác. Chừng
nào còn giữ chế độ gọi là “Xã hội chủ nghĩa” bên cạnh anh Cộng sản khồng lồ
Trung Quốc, thì hoạ mất nước là thường trực.
Có thể ĐCSVN lường trước bước thứ hai này nên nghi ngờ và cấm người dân
biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ?.
Tôi nghĩ mọi việc hoàn toàn trong sáng, không có gì thủ đoạn ở đây. Cần
nói thật với nhau rằng việc trước mắt cũng như lâu dài đều đòi hỏi phải tháo
vòng Kim-cô chuyên chính Vô sản, nhưng tính chất hai việc khác nhau xa. Kẻ xâm
lược là giặc đến từ bên ngoài, cần phải làm cho họ thất bại trong âm mưu đó, việc
ấy phải làm ngay không thể trần trừ, hoàn toàn không giống với quan hệ người
trong một nước với nhau, quan hệ được cố kết bởi tình yêu Tổ quốc ngàn đời
thiêng liêng, để cùng xây dựng một đất nước văn minh là điều hoàn toàn có thể
thực hiện được, mà nước Đức là một tấm gương đầy thuyết phục.
H.S.P
(9-8-2012)
==========================================================
[1] Sai lầm gốc từ Mác nhưng phải cộng với Lênin mới thành một thể hoàn
chỉnh về chính trị và lan rộng ra thế giới.
[2] Hà Sĩ Phu : http://www.hasiphu.com/ll3.html
PHẦN VIẾT
THÊM
Cần thoát khỏi một vài nguỵ biện và những
suy nghĩ tự trói buộc
* Nhiều đảng viên rất lo ngại cho hiện tình xuống dốc và bất lực của đảng
hiện nay, nhưng băn khoăn trước câu hỏi: Đảng không ưu việt sao đánh được Pháp,
được Mỹ? Đảng cũng làm được nhiều việc tốt đấy chứ? Ba triệu đảng viên hầu hết
là tốt thì đảng sao lại xấu được? Xin nêu tóm tắt mấy ý góp phần giải đáp:
- Mác-Lê vào được Việt Nam là do tháp tùng lòng yêu nước, những thành tựu
có được là do tựa vào sức mạnh yêu nước của dân tộc mà có. Ở đâu và khi nào nhân
tố chuyên chính vô sản phát huy tác dụng, lấn át truyền thống dân tộc, thì ở đó,
khi đó, phát sinh sai lầm và tổn thất.
- Cái tốt chủ yếu ở giai đoạn đầu,
khi cầm quyền là bắt đầu thoái hóa, càng củng cố được quyền lực thì càng thoái
hoá, càng về sau càng thoái hóa. Muốn
lấy lại thiện cảm thì phải “ăn mày quá khứ”.
- Cá nhân đảng viên có thể tốt, nhưng đứng trước tổ chức thì những cái
tốt cá nhân bị vô hiệu hoá. Tổ chức Cộng sản là phép cộng những “số dương”
thành một “số âm”, sử dụng rất nhiều người tốt để thực hiện một điều huyễn hoặc,
không tốt. Càng lên trên thì tính “bản thiện” của con người càng bị tính chuyên
chính sai lầm của tổ chức lấn át, cho nên càng lên trên càng tiêu cực. Tham nhũng độc quyền ghê gớm nhất đều ở cấp
cao. Chính gương tốt, liêm chính, của các đảng viên ở cơ sở là tấm bình
phong che cho tội lỗi của cấp cao
- Bởi là người tốt, người yêu nước, nhưng bị dòng lịch sử cuốn vào một
trào lưu huyễn tưởng nay đã bị lịch sử đào thải, thì mỗi người đảng viên cộng sản
đều phải chọn một trong hai sự “phản bội” không thể thoái thác: hoặc cứ nhắm mắt
theo chủ nghĩa thì phản bội dân tộc, hoặc đặt dân tộc lên trên thì sẵn sàng từ
bỏ chủ nghĩa Mác-Lê ảo tưởng, đó là sự từ bỏ, sự “phản bội” đáng ca ngợi.
* Một nguỵ biện nhằm chống biểu tình:
Người dân muốn biểu thị quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ đất nước thì
phương pháp truyền thống ở mọi quốc gia là BIỂU TÌNH. Muốn giúp cho quân xâm lược
khỏi bị làm phiền thì nhà cầm quyền Việt Nam hứa với họ là kiên quyết cấm dân
VN mình biểu tình. Nhưng không thể công khai
cấm biểu tình (vì cấm là phi lý và thất nhân tâm) thì cấm những gì liên quan không thể tách rời với biểu tình là đi đông
người trên phố, bèn quy tội là gây rối trật
tự, ảnh hưởng đến giao thông. Đây là nguỵ biện
dùng “mẹo Trạng Quỳnh”: nếu không thể cấm ỈA thì cấm ĐÁI, không được đái thì
làm sao mà ỉa? Thế là không cấm biểu tình mà dân không biểu tình
được.
Nhà nước ta quả là nhiều sáng kiến và tận tâm với bạn vàng xâm lược. Nhưng
xin thưa điều quy kết này là bậy bạ và phạm pháp. Đường xá là của toàn dân, người
dân được sử dụng để đi lại thông thường và đi lại trong những việc đông người
chính đáng: đám cưới, đám tang rất cản trở giao thông, đón rước, hội hè rất cản
trở giao thông…thì giao thông tạm ngừng một thời gian ngắn, có sao đâu? Biểu
tình bảo vệ Tổ quốc còn chính đáng và quan trọng hơn mọi sinh hoạt khác, giao
thông phải tạm dừng để phục vụ biểu tình cũng là chính đáng, huống chi lèo tèo
vài trăm người thì cản trở nỗi gì? Mẹo “cho Ỉa nhưng cấm đái” này sẽ còn
phát huy nhiều ngụy biện xảo trá khác nữa, nhưng nhân danh một “Chính” quyền mà
dùng mẹo bẩn như vậy thì còn “chính” nữa không?
9/8/2012 -HSP-
(Bài nhận từ tác giả. NCTVN biên tập)