Tạp
chí La Revue*
Hà
Vi, Quang Trung dịch
TRUNG ĐÔNG
Sáu báo động đỏ
Gérard Haddad
Tình trạng bất ổn chính trị ở Trung Đông đã quá nổi tiếng.
Nhưng có một điều chắc chắn là dân số sẽ già đi chút ít do tỷ lệ sinh thấp. Phần báo cáo này sẽ là một bảng điều khiển với
sáu đèn báo động:
1) Phái
Hồi giáo ôn hòa của tổ chức Anh Em Hồi Giáo liệu có thể giành được quyền lực
không? Rõ ràng thì đấy là
ý muốn của họ. Nhưng nếu tham nhũng và thất nghiệp vẫn tồn tại, dân chúng chắc
sẽ mong muốn chế độ chuyên chế quay trở lại, và họ sẽ nhìn các Hồi giáo cực
đoan như là một giải pháp thay thế chủ nghĩa tư bản và dân chủ của phương tây.
2) Các
chính phủ chuyển tiếp có thể ngăn được các cuộc xung đột xã hội không? Sự bất ổn kéo dài sẽ còn dữ dội tại Irak, Libye, Yemen
và Syrie. Sự tan vỡ của Irak hay Syrie cũng có thể sinh ra một nước Kurdistan độc
lập. Nếu những tình huống đó xảy ra, sẽ còn lại 3 nước không Ả Rập khác cùng kiểm
soát tình hình, đó là Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Israel.
3) Nền
kinh tế của cả vùng có thể lấy lại ổn định và đối phó được với xu thế toàn cầu
hóa không? Khu vực này không
thu hút nhiều các nhà đầu tư, ngoại trừ ba lĩnh vực dầu lửa, du lịch, và bất động
sản. Sự chậm trễ của vùng này trong lĩnh vực công nghệ cũng quá lớn, hơn thế lại
ít gắn bó với mạng lưới thương mại và tài chính thế giới. Sự giảm nhẹ của dân số
cũng sẽ đặt ra nhiều vấn đề lớn cho y tế cộng đồng.
4) Khát
khao hạt nhân của Iran. Kể
cả khi Iran dừng lại trước khi sản xuất được vũ khí hạt nhân, Ả Rập Xê Út cũng
sẽ cố đoạt được loại vũ khí này từ Pakistan. Thổ Nhĩ Kì, cũng rất có thể sẽ đi
vào con đường này. Và trong một viễn cảnh hai nhánh Hồi giáo, Shia và Sunni, vẫn
đố kị nhau thì toàn vùng sẽ ở trong một tình trạng bất ổn liên miên. Nhưng một
tình huống khác cũng có thể xảy ra. Dân chúng Iran sẽ muốn một nền kinh tế phát
đạt hơn là có được vũ khí hạt nhân, và vì vậy họ sẽ lật đổ chế độ hiện tại. Ta
sẽ có thể thấy ló lên một Iran dân chủ và ủng hộ phương Tây.
5) Khả
năng dàn xếp giữa Israel và Palestine. Điều này sẽ thúc đẩy sự ổn định của toàn vùng Trung Đông, và bắt Iran phải
thoái lui trong chiến lược và sức mạnh của Hamas rồi Hezbollah sẽ yếu đi. Biên
giới giữa Israel và Palestine sẽ tương đương với đường “xanh” hiện nay. Những vấn
đề nhạy cảm nhất (việc hồi hương của những người tị nạn, địa vị pháp lý của
Jerusalem, vấn đề phi quân sự hóa) có thể sẽ chưa được giải quyết hoàn toàn.
Israel hiện nay đang bị chia rẽ bởi hai hệ thống giá trị nền tảng, đó là một xã
hội tự do và thế tục và một thế lực đang mạnh dần của những người có tư tưởng siêu
chính thống (ultra-orthodoxes)[i] và những người (Do Thái) theo dòng Chúa cứu thế
(messianistes). Nếu Israel vẫn là thế lực quân sự mạnh nhất toàn vùng thì họ vẫn
sẽ bị đe dọa bởi nhiều thành phần vũ trang khác – dù là nhỏ, nhưng thường trực
-, nếu không kể tới mối đe dọa hạt nhân từ Iran.
6) Ả
Rập Xê Út và các chế độ quân chủ của Vịnh Ba Tư có tránh được các làn sóng biểu
tình đang thay đổi thế giới Ả Rập không? Nếu phong trào này lây sang họ, đó sẽ là sự bắt đầu của
một giai đoạn bất ổn lớn về kinh tế và chính trị. Nhưng nếu các chế độ này vẫn
trụ được với một vài cải cách, thì tình trạng hiện nay vẫn có thể tiếp diễn.
Khi đó họ sẽ hỗ trợ các nước khác đang trong giai đoạn chuyển tiếp, như Ai Cập
và Syrie.
NĂNG LƯỢNG
Sự «trở lại» của Hoa Kỳ
Với cầu thế giới
tăng 50% từ nay đến 2030, năng lượng vẫn là một thách thức lớn. Một sự đảo lộn
kỳ diệu sẽ đến từ khí đốt sản xuất từ đá phiến
Olivier Marbot
Một số nhà bình
luận đã không ngần ngại tếu táo với thuật ngữ «l’Amérique saoudite» (Nước Mỹ Xê-út).
Bản báo cáo của Cơ quan năng lượng quốc tế (AIE) được công bố vào tháng 11-2012
dự đoán rằng, nhờ vào khí đốt và dầu sản xuất từ đá phiến, Hoa Kỳ có thể sẽ đạt
được sự độc lập về năng lượng, và sau đó, khoảng năm 2020, sẽ trở thành nước sản xuất dầu
thô hàng đầu thế giới, các chuyên gia cũng không ngớt phỏng đoán về hàng loạt
những thay đổi sẽ xảy ra ở châu Mỹ và trên toàn cầu do một sự đảo ngược như thế
về tương quan sức mạnh. Những dự báo của Hội đồng Tình báo Trung ương Hoa Kỳ
(NIC) cũng không nằm ngoài khuôn thước này, cho rằng sự xuất hiện của các nguồn
năng lượng «phi truyền thống» trở thành một hiện tượng quan trọng trong 2 thập
niên tới đây ở Hoa Kỳ cũng như trên thế giới. «Phải mất một thời gian chúng ta
mới có thể hiểu được hết những ảnh hưởng về kinh tế, và thậm chí về chính trị,
của cuộc cách mạng công nghệ này, tuy nhiên ngày nay chúng ta có thể đã cảm nhận
được những điều đó», NIC nhấn mạnh như vậy, đồng thời nhắc lại nghiên cứu của
AIE và đi đến cùng một kết luận: nguồn cung của thế giới sẽ tiếp tục đáp ứng được
cầu, và Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng sản xuất đủ năng lượng để đáp ứng đủ nhu cầu của
chính họ và, sau đó, trở thành nước xuất khẩu lớn về khí đốt và dầu, thậm chí
có thể trở thành nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Đối với khí đốt, ở
đây không còn là viễn cảnh nữa mà người ta đã biết chắc chắn Hoa Kỳ có cơ sở để
tự cung đủ trong nhiều thập niên. Tiềm năng dầu lửa ở dạng «phi truyền thống» cũng
chưa được đánh giá hết và còn việc khai thác những tài nguyên này cũng mới chỉ
bắt đầu.
Ả-rập xê-út bị đe dọa
NIC thậm chí còn
đưa ra một đánh giá: đến khoảng 2020, Hoa Kỳ có thể sản xuất từ 5 đến 15 triệu
thùng mỗi ngày! Để dễ hình dung, chúng ta nên biết Ả-rập Xê-út hiện chỉ sản suất được khoảng 10 triệu thùng
mỗi ngày. Và nhất là dầu lửa từ đá phiến «Made in USA » có giá giao động
trong khoảng 44 đến 68 đô-la/thùng! Rất thấp so với mức 100 đô la hiện nay, và
còn thấp hơn nữa nếu so với giá 200 đô-la mà các chuyên gia đã thông báo cách
đây ít lâu. «Theo bản báo cáo, những phân tích ban đầu cho rằng nguồn năng lượng
giá rẻ này sẽ thúc đẩy nhiều công ty đến làm ăn hoặc chuyển cơ sở đến Hoa Kỳ,
điều đó sẽ đẩy tổng sản phẩm quốc nội gộp (PIB) tăng từ 1,7 lên 2,2%, một sự
tái cân bằng của cán cân thương mại và tạo ra 2,4 đến 3 triệu việc làm mới từ nay đến năm 2030.
Hoa Kỳ sẽ mua ít dầu lửa hơn và thậm chí là hoàn toàn không nhập khẩu từ các
nhà cung cấp chính hiện nay khiến những nhà xuất khẩu dầu lửa này sẽ phải đi tìm
các thị trường khác. Điều này sẽ gây ra nguy cơ mất ổn định cho một vài nước mà
toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào sản xuất dầu lửa». Cuối cùng, bản báo
cáo đánh giá rằng nếu sản lượng của Hoa Kỳ đạt hoặc vượt 8 triệu thùng mỗi
ngày, các nước thành viên Tổ chức xuất khẩu dầu lửa OPEP sẽ không còn khả năng ấn
định giá dầu thô nữa, và, tất yếu, giá dầu lửa quốc tế sẽ sụp xuống.
Sự chuyển đổi không tốt cho năng lượng xanh
Dưới đây là một
bảng phân bổ khí đốt từ đá phiến gần như tuyệt hảo, ít ra cũng là theo những tiêu
chí của Hoa Kỳ. Sau khi đề cập vắn tắt tới châu Âu nơi mà nhiều quốc gia còn ngần
ngại sử dụng các công nghệ thủy lực bẻ gãy (technologies de fracturation)[ii],
bản báo cáo kết thúc bằng vấn đề môi trường và những rủi ro ô nhiễm cho nước và
đất. Các chuyên gia của NIC thừa nhận «chỉ cần một tai nạn nghiêm trọng xảy ra
tại điểm khoan với công nghệ thủy lực bẻ gãy có thể khiến dân chúng náo loạn là
đủ phải dừng toàn bộ hoạt động khai thác trong toàn vùng ».
Trầm trọng hơn
có thể là: Một khi hydrocarbures hóa thạch lại trở nên dồi dào và rẻ thì điều đó
sẽ gây ra một trì kéo cho sự phát triển các nguồn năng lượng tái tạo! Các chính
phủ, với sức ép bị trừng phạt tài chính nếu họ không kiểm soát được việc thải
khí gây hiệu ứng nhà kính, liệu có còn thực sự muốn đổ tiền xây dựng các cơ sở
sản xuất năng lượng từ mặt trời, từ gió hoặc thủy điện trong khi các cơ sở chạy
bằng khí đốt vẫn có thể cung cấp được các sản phẩm tương tự nhưng với giá rẻ
hơn? Cơ quan Năng lượng Quốc tế còn bi quan cho rằng trừ khi đạt được đồng thuận
toàn cầu về việc giảm mạnh khí thải CO2, các nguồn năng lượng tái tạo có thể sẽ
chỉ chiếm 4% tổng số năng lượng được tiêu thụ trên thế giới vào năm 2050. Năng
lượng từ gió và mặt trời chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong 4% vốn đã rất khiêm tốn
này.
Phân bổ trữ lượng khí đốt từ đá phiến trên toàn thế
giới :
Theo dự tính của
giới địa chất, trữ lượng khí đốt từ đá phiến được phân bổ khá công bình trên
hành tinh.
Khu vực
|
Trữ lượng khí đốt từ
đá phiến có thể khai thác (đơn vị : Tỷ m³)
|
BẮC MỸ
|
100
(Hoa Kỳ chiếm 24,0)
|
NAM MỸ
|
60
(Argentine: 21,9 ; Brésil: 6,3)
|
Châu Âu
|
15
(Pháp: 5,0 ; Ba Lan: 5,3)
|
Khu vực Liên
Xô cũ
|
12
|
Khu vực Trung
Á và Trung Quốc
|
100
(Trung Quốc: 36,0)
|
Châu Phi và
Trung Đông
|
75
(Algérie: 6,5 ; Lybie : 8,2 ; Nam
Phi : 13,7)
|
Khu vực châu
Á-Thái Bình Dương
|
74
(Australie: 11,2)
|
Nguồn:
World Energy Outlook, New Scientist,
Schlumberg.
CÔNG NGHỆ
Thách thức của «Dữ Liệu Khủng»
Lưu trữ dữ liệu
có thể trở thành một mặt trận của một cuộc chiến tranh đa cực về thông tin
Stesphan Marchand
«Tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ chậm
lại sau 2010, chấm dứt vào năm 2025 và sau đó xu thế sẽ đảo chiều. Nhưng chỉ với
một điều kiện là những tiến bộ công nghệ phải được tiếp tục». Những lời này
là của George W. Bush, được phát biểu vào tháng 4 năm 2008, đã làm thất vọng giới
sinh thái học Hoa Kỳ, những người đang trông chờ một sự ủng hộ cho việc siết chặt
hơn về năng lượng. Phát ngôn đó cũng đủ cho thấy sự «mê mẩn công nghệ» (technomania)
đang hoành hành khắp nước Mỹ. Với đức tin đó thì mọi vấn đề sẽ đều có một giải
pháp bằng công nghệ. Bản báo cáo «Global Trends 2030» của Hội đồng Tình báo Trung
ương cũng đã phản ánh rõ điều đó. Trong kịch bản lạc quan nhất của nó, tất cả
các khuynh hướng kinh tế xã hội gây hại cho hành tinh chúng ta như việc dân số
già đi, khí hậu nóng lên, bùng nổ các đô thị lớn, các cấu trúc nhà nước bị xóa
mất, đều sẽ được bù đắp, giải quyết bằng sự xuất hiện các công nghệ mới có khả
năng giảm thiểu những hệ quả xấu của các hiện tượng đó.
Chính đó là công
nghệ thông tin, lĩnh vực sẽ chiếm một vai trò quan trọng nhất, nhất là khi
thông tin với tất cả các dạng thức của chúng đang ngày càng trở thành trung tâm
của mọi hoạt động có khả năng định hình đời sống xã hội, kinh tế và khoa học của
hành tinh chúng ta. Công nghệ thông tin được ưa chuộng nhất hiện nay là «Dữ Liệu
Khủng» (Big Data), đó là việc lưu trữ và xử lý những khối lượng thông tin lớn
và liên tục gia tăng, đó có thể là thông tin về toàn bộ khách hàng của một
doanh nghiệp, về toàn bộ những người nộp thuế của một quốc gia, về các nguồn
cung trong hệ thống cấp nước sạch của một thành phố, hoặc về các kết quả của một
thí nghiệm khoa học phức tạp.
Sau đây là 2 ví
dụ. Trước tiên là về vật lý lý thuyết: các phụ tá của phòng thí nghiệm Máy gia
tốc hạt lớn (LHC-Large Hadron Collider) ở vùng Cern tại Genève lưu trữ
mỗi năm 15 pétaoctets (tương đương 15 triệu gigaoctets) dữ liệu, tương ứng với
khoảng một chồng đĩa CD cao 20 km (ki-lô-mét). Còn đây thuộc lĩnh vực khí tượng:
Độ chính xác trong dự báo là vô cùng quan trọng cho an toàn giao thông hàng hải,
hay cho các kế hoạch gieo trồng nhà nông. Nhưng vấn đề này đang vấp phải khó
khăn trong việc mô hình hóa các đám mây. Hy vọng với sự trợ giúp của các máy
tính đang ngày càng mạnh hơn, một ngày nào đó, Dữ Liệu Khủng có thể giải quyết
được vấn đề này.
Chi phí bảo dưỡng
Hội đồng Tình
báo Trung ương (NIC) còn đi xa hơn nữa: Các giải pháp trong việc lưu trữ dữ liệu
còn có thể «giúp các chính trị gia giải quyết những khó khăn về tăng trưởng
kinh tế và điều hành quốc gia, giúp phát triển một mối quan hệ nhân bản hơn, trực
giác hơn với máy tính, và giúp việc tiếp cận và sử dụng tri thức dễ dàng hơn»,
nhất là «cải thiện khả năng dự đoán về các mô hình kinh tế». Tuy nhiên, Global
Trends 2030 không rơi vào tình trạng lý tưởng hóa. Bản báo cáo cũng nhận thấy khả
năng lưu trữ không hạn chế các dữ liệu có thể cung cấp cho các chính phủ các
công cụ đối phó với các nạn giả mạo đang gia tăng một cách khủng khiếp, và khả
năng đó cũng tạo ra tình trạng quá tải về thông tin cho xã hội và dẫn đến các chi
phí lớn trong việc duy trì, bảo dưỡng thông tin.○
*Nguồn : La Revue (bản giấy,
tạp chí quan hệ quốc tế ra hàng tháng của Pháp) No 29, tháng Hai, 2013.
[i]
Một phái thuộc Do Thái giáo (Judaism), với tên gọi khác là Haredi. Những người
theo phái này được coi là phái bảo thủ nhất trong Do Thái giáo, họ cũng tự coi
họ là thuần khiết Do Thái nhất với các quan điểm còn bảo thủ như phân biệt giáo
dục riêng cho nam, nữ…(ND)
[ii]
Công nghệ bơm chất lỏng dưới áp lực rất cao để phá vỡ, chia tách các lớp địa chất
(ít thấm) trong lòng đất với độ sâu có thể lên tới 4 Km. Công nghệ này được
khám phá vào khoảng giữa thế kỷ 20 với các kỹ thuật khoan thẳng đứng, sau đó được
phát triển mạnh hơn với sự phát triển kỹ thuật khoan nằm ngang để thăm dò, khai
thác các tài nguyên trước đây rất khó tiếp cận. (ND)