Chính
trường Hoa Kỳ đang trong thời kỳ chuyển giao. Gần như chắc chắn, vị Bộ trưởng
Quốc phòng mới sẽ là cựu Thượng nghị sỹ Chuck Hagel, đảng viên Đảng Cộng Hòa
(Republican) và cũng có thể người kế nhiệm Thượng nghị sỹ John Kerry (nhiều khả năng sắp giữ
chức ngoại trưởng) ở vị trí Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện cũng là một
người Cộng hòa*.
Sau
đây là bản dịch từ bài viết có tính xác định chính sách đối ngoại cho Đảng Cộng
Hòa của Thượng nghị sỹ Chuck Hagel cách đây 08 năm vừa được Foreign Affairs
đăng lại. Như Cây Tre Việt Nam xin trân trọng giới thiệu.
Một chính sách đối
ngoại của Đảng Cộng Hòa
Chuck Hagel
Tháng
Bảy/Tám 2004
Sự thách thức của thế hệ
Những
cuộc tấn công của khủng bố vào ngày 11 tháng 9, năm 2001, đã giết chết gần ba
(3) ngàn người Mỹ là những dấu hiệu của một kỷ nguyên mới, một khúc ngoặt trong
lịch sử của chúng ta.
Chủ
nghĩa Khủng bố là một thách thức có tính cách lịch sử và hiện sinh buộc chúng
ta phải xác định lại những quan niệm, lối nhìn truyền thống về an ninh quốc
gia, và đối phó với khủng bố phải được đặt lên trên cùng của nghị sự quốc gia,
và, chính thế, nó phải được đặt vào trung tâm trong chính sách đối ngoại của Đảng
Cộng Hòa. Nhưng cuộc chiến chống khủng bố không thể được xem như là cá biệt,
riêng rẽ, mà cần phải xem xét cùng với cuộc khủng hoảng rộng lớn hơn về vấn đề quản
trị quốc gia ở khắp các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là vùng Trung Đông
và vùng phụ cận.
Khi
thực hiện tấn công quân sự chống lại al Qaeda và nhóm Taliban ở Afghanistan, Tổng
Thống Goerge W. Bush đã hiểu rõ rằng cuộc chiến chống khủng bố không chỉ đơn
thuần ở việc sử dụng quyền hạn hợp pháp của sức mạnh quân sự, mà phải buộc phải
có một mục đích tương xứng với việc sử dụng sức mạnh quân sự của chúng ta.
Như
Tổng Thống Bush đã phát biểu trước phiên họp chung của Quốc Hội vào ngày 29
tháng 1 năm 2002, "Chúng ta có một mục tiêu lớn hơn mục tiêu loại bỏ những
đe dọa của khủng bố và kiềm chế lòng thù hận. Đó là chúng ta mong tìm và đạt được
một thế giới công bằng và hòa bình vượt trên cả cuộc chiến chống khủng bố."
Một
chính sách đối ngoại khôn ngoan phải nhận ra rằng lãnh đạo Hoa Kỳ phải quyết
tâm theo đuổi các cam kết về nguyên tắc, đạo đức cũng mạnh mẽ như việc sử dụng
sức mạnh của chúng ta. Chính sách đối ngoại là một chiếc cầu nối liền giữa Hoa
Kỳ và thế giới, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hoa
Kỳ phải nắm, bắt lấy những cơ hội, động lực của sự thay đổi, bao gồm cả sức mạnh
không-ngừng-nghỉ, bất ngờ của một thế hệ mới, thế hệ đang trưởng thành trên khắp
thế giới. Sự kỳ vọng, lòng tin tưởng vào giới lãnh đạo Hoa Kỳ và những mục tiêu
của lãnh đạo Hoa Kỳ có vai trò tối quan trọng trong việc hình thành một nối kết,
tương quan toàn cầu hệ trọng và sống còn đối với thế hệ kế tiếp đó.
Những
thách thức đối với lãnh đạo Hoa Kỳ và nền an ninh sẽ không chỉ đến từ những cường
quốc đối thủ, mà còn đến từ những quốc gia nhỏ, yếu. Chủ nghĩa Khủng bố sẽ tìm
nơi trú ẩn trong những quốc gia đã hoặc đang thất bại, trong những xung đột khu
vực, chưa giải quyết, và trong sự bất hạnh to lớn của nghèo đói và tuyệt vọng.
Những chế độ, chính thể không liêm chính, đang ủng hộ chủ nghĩa khủng bố để tìm
kiếm tính hợp pháp và sức mạnh thông qua việc sở hữu những vũ khí giết người
hàng loạt, thay vì đạt được điều đó thông qua lắng nghe ý nguyện và đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân. Chủ nghĩa Khủng bố và tham vọng vũ khí hạt nhân đang câu kết
âm thầm với những thách thức của các quốc gia đã và đang thất bại.
Năm
(5) tỷ của 6 tỷ người trên thế giới đang sống trong những khu vực kém phát triển.
Hầu hết sự gia tăng dân số trên thế giới trong thế kỷ này sẽ đến từ những khu vực
này, nơi mà gần 1 phần 3 (1/3) dân số dưới tuổi 15. khi thế hệ trẻ nầy lớn lên và trưởng thành,
nó sẽ trở thành một sức mạnh, một động lực to lớn nhất cho sự thay đổi chính trị
thế giới trong nửa thế kỷ đầu của thế kỷ thứ 21. Nhiều chính quyền trong các quốc
gia đang phát triển, nhất là ở Phi Châu, vùng Trung Đông mở rộng, và Á Châu, sẽ
không đủ khả năng để đáp ứng những nhu cầu, đòi hỏi cơ bản của dân số gia tăng
về công ăn việc làm, y tế và an sinh xã hội. Mặc dù nghèo đói và thất vọng
không "gây nên, tạo nên" khủng bố, nhưng nó sẽ cung ứng một môi trường,
một vùng đất phì nhiêu cho khủng bố nở rộ.
Những
căng thẳng quá độ về dân số, phát triển kinh tế thất bại, và những chính thể độc
tài sẽ góp phần làm cho dân chúng trở nên cực đoan và biến chính trị trở thành
tàn bạo.
Sự
khủng khoảng về quản trị quốc gia của các nước đang phát triển, vì vậy không thể
tách biệt ra khỏi những quan tâm, quyền lợi toàn cầu của Hoa Kỳ. Đây chính là bối
cảnh mà sự khủng khoảng nêu trên phải được nhận thức và hiểu rõ trong các cuộc
thảo luận về chính sách đối ngoại hiện nay.
Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Hòa
Theo
truyền thống, chích sách đối ngoại (của Đảng) Cộng Hòa đã luôn được dựa trên chủ
trương, cam kết có một nền quốc phòng hùng mạnh. Các vấn đề của thế giới sẽ
không chỉ đơn độc giải quyết bằng quân sự, nhưng sức mạnh vẫn là điều đầu tiên
và sau cùng trong việc bảo vệ tự do và an ninh của Hoa Kỳ. Khi được sử dụng một
cách khôn ngoan và thận trọng, nó sẽ là một phương tiện cần thiết cho sức mạnh
và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Quân khủng bố và những quốc gia tấn công
Hoa Kỳ phải hiểu rằng một cuộc phản công nhanh và mạnh mẽ từ phía Hoa Kỳ là điều tất nhiên và bình thường.
Đảng
viên Cộng Hòa phải xác định rằng sức mạnh của Hoa Kỳ trên thế giới bắt đầu bằng
sức mạnh ở trong nước.
Nguồn
tài nguyên của Hoa Kỳ đòi hỏi chúng ta phải hành động khôn ngoan và quản lý thận
trọng. Ngân sách thâm thủng (hay thiếu hụt) và những chương trình phúc lợi, nếu
không kiểm soát, sẽ làm mất niềm tin vào nền kinh tế của chúng ta, làm cản trở
phát triển kinh tế và nguồn vốn đầu tư, làm cho Hoa Kỳ trở nên kém cạnh tranh,
và xói mòn đi vị trí lãnh đạo kinh tế thế giới của chúng ta. Khi đó những nhà
hoạch định chính sách của Hoa Kỳ sẽ bị áp lực buộc phải có những chọn lựa khó
khăn giữa an ninh quốc gia và các ưu tiên trong nước.
Công dân Mỹ phải được giáo dục và ý thức
về những thực tế của nền kinh tế toàn cầu và những lời hứa, quyết tâm về lãnh đạo
kinh tế toàn cầu. Chính sách giáo dục của chúng ta phải được chú trọng đến ngoại
ngữ, văn hóa, và lịch sử thế giới, và tạo nhiều khuyến khích và điều kiện tiện
lợi hơn cho việc du học nước ngoài.
Chúng ta cũng phải chuẩn bị cho học
sinh/sinh viên và công nhân cho các ngành công nghiệp và dịch vụ, những lĩnh vực
sẽ giúp Hoa Kỳ có một lợi thế cạnh tranh trong một nền kinh tế toàn cầu trong giai
đoạn đầu của thế kỷ thứ 21.
Đảng Cộng Hòa phải hiểu rằng một chính sách
đối ngoại thành công không những chỉ là một chính sách mạnh mẽ, mà còn phải bền
vững, lâu dài. Một chính sách bền vững đòi hỏi một sự đồng thuận trong nước và
lòng quyết tâm của toàn quốc gia. Điều này phải được bắt đầu với sự lãnh đạo mạnh,
tự tin và tầm nhìn xa của tổng thống về vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới. Đội
ngũ An Ninh quốc gia của tổng thống phải thống nhất và gắn bó. Nhưng điều đó
không có nghĩa là những quan điểm khác biệt không được dung thứ, bày tỏ hay
chia sẻ; những lối nhìn, quan điểm khác biệt là yêu cần cần có để có thể xây dựng, hình thành được bất kỳ một chính
sách bền vững nào.
Nhưng một khi quyết định đã được thực hiện,
những âm mưu cung đình và các toan tính cá nhân không được phép để lây nhiễm vào
chính sách và việc thực hiện chính sách đó.
Chỉ
có tổng thống mới có thể kết nối được các nỗ lực này cùng với nhau. Tuy nhiên, Quốc
hội cũng có một vai trò hiến pháp và trách nhiệm để giúp hình thành chính sách
đối ngoại. Nếu không có sự tham gia và hỗ trợ của Quốc hội, chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ sẽ thiếu tính hợp pháp và tính bền vững.
Thiếu
vắng tính đồng thuận ở trong nước đồng nghĩa với việc có trở ngại trong chính
sách đối ngoại ở nước ngoài. Đây là một trong những bài học lịch sử về Việt
Nam, khi Hoa Kỳ, bị chia rẽ trong nước và bị cô lập ở nước ngoài, đã thất bại
trong việc xử lý các vấn đề tại khu vực Đông Nam Á.
Đảng
Cộng hòa cũng biết rằng một chính sách đối ngoại thành công phải rõ ràng và
toàn diện, với sự uyển chuyển linh động để đáp ứng với những tình huống bất trắc,
các sắc thái đa dạng và những vấn đề không thể kiểm soát –những biến động hàng
ngày của vấn đề đối ngoại. Cơ cấu lực lượng Hoa Kỳ và các nguồn lực thiết yếu phải
phù hợp với những cam kết về an ninh và đối ngoại cần thiết cho thế hệ nối tiếp.
Điều đó có thể đòi hỏi phải hình thành một dạng mới về nghĩa vụ quốc gia bắt buộc.
Nếu trong thực tế, Hoa Kỳ buộc phải tham dự vào một cuộc chiến tranh thế hệ,
thì tất cả chúng ta phải chia sẻ những gánh nặng, những hy sinh, và những giá
phải trả cho thách thức mang tầm quốc gia này.
Với
tất cả những tính toán, dự kiến, phương án, một chính sách đối ngoại của Đảng Cộng
Hòa cho thế kỷ thứ 21 sẽ đòi hỏi nhiều hơn so với truyền thống chính trị thực tại
và cán cân quyền lực chính trị. Sự thành công với các chính sách của chúng ta
không những sẽ phụ thuộc vào qui mô sức mạnh của chúng ta, mà còn là khả năng
thấu hiểu chân giá trị về những giới hạn của nó. Lịch sử đã dạy chúng ta rằng
chính sách đối ngoại không được buông lơi, xao lãng với nhiệm vụ thiêng liêng này.
Nó phải truyền cảm hứng, khuyến khích các đồng minh của chúng ta chia sẻ, thực
hiện sứ mệnh làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu
nó luôn tuân theo bảy nguyên tắc sau đây.
Nguyên tắc và hành Động
Thứ nhất, Hoa Kỳ phải tiếp
tục quyết tâm lãnh đạo nền kinh tế toàn cầu. Tinh thần pháp trị (rule of law),
quyền sở hữu, những tiến bộ trong khoa học và công nghệ, và năng suất lao động gia
tăng, là những yếu tố đã giúp cho Hoa Kỳ trở thành lực lượng hàng đầu trên thị
trường toàn cầu. Tăng năng suất có thể có nghĩa là người lao động ít hơn trong
một số lĩnh vực, chẳng hạn như khu vực chế tạo. Nhưng qua thời gian, những thành
quả này có nghĩa là công việc nhiều hơn và tốt hơn và khả năng đầu tư trong các
nghành có tăng trưởng cao, hay cần công nghệ cao. Như Michael Porter đã viết
trong tác phẩm kinh điển của ông Lợi Thế
so sánh của các quốc gia (The Comparative Advantage of Nations), “mức sống tiêu chuẩn trong dài hạn của một quốc gia phụ thuộc
vào khả năng của quốc gia đó trong việc đạt được một mức độ cao và tăng năng suất
trong các ngành công nghiệp có cạnh tranh.”
Điều
này có nghĩa rằng Hoa Kỳ phải mở rộng các hiệp ước thương mại tự do và công bằng
và khuyến khích thương mại nội vùng (trong khu vực lân cận) và tăng đầu tư tại
các khu vực đang phát triển. Thương mại là động lực lớn cho sự thịnh vượng kinh
tế bền vững, an ninh, và tạo việc làm, cả Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.
Trong
những giai đoạn của bất trắc và thay đổi, các nước có thể đóng cửa thị trường
và bảo vệ các ngành công nghiệp nhất định trong nước. Mỹ cũng vẫn không tránh
khỏi điều này, và trong quá khứ, sự tiềm kiếm nơi an toàn, ẩn trú trong một
truyền thống chính trị ốc đảo, thiển cận, đã góp phần vào sự cô lập chia rẽ ở
quốc nội và tình trạng bất ổn ở hải ngoại. Chúng ta phải chống lại những cám dỗ
này và những bài học lịch sử đau đớn, quí giá đó không được phép lãng quên.
Chính
sách đối ngoại của Mỹ cũng phải thúc đẩy các quốc gia khác có chính sách, đường
lối quản trị tốt, cổ xúy, tôn trọng tinh thần pháp trị, đầu tư vào con người,
quyền sở hữu tư nhân, và tự do kinh tế. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục là một thí dụ điển
hình, không kiêu ngạo, nhưng hợp tác, thông qua lãnh đạo kiên quyết và hợp tác
gắn bó.
Tất
cả các quốc gia đều có thể cùng chia sẻ sự thịnh vượng đến từ những hoạt động quản
lý kinh tế lành mạnh và các chính sách tăng trưởng dựa trên thương mại. Đó là mục
đích của "Vấn Đề Thách thức của Thiên niên kỷ" (MCA – Millennium
Challenge Account), được hình thành bởi chính quyền Bush như là một "công thức
gói gọn cho sự phát triển toàn cầu" giữa các quốc gia phát triển và đang
phát triển.
Thứ hai, chính sách đối
ngoại của Mỹ không thể bỏ qua vấn đề an ninh năng lượng toàn cầu. Các thảo luận
về chính sách năng lượng Mỹ thường bị tách khỏi chính sách kinh tế trong và
ngoài nước. Hoa Kỳ có lợi ích trong việc đảm bảo nguồn cung cấp ổn định và an
toàn của dầu (hỏa) và khí (đốt) tự nhiên.
Theo
Bộ Năng lượng, Hoa Kỳ nhập khẩu gần 60% dầu thô. Hai mươi phần trăm nhập khẩu đến
từ Vịnh Ba Tư; đến năm 2025, tỷ lệ này được dự kiến sẽ tăng đến 26%. Tỷ lượng
dầu nhập khẩu của Mỹ từ các thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
(OPEC) cũng dự kiến sẽ tăng từ 40% đến 53%. Nhưng ngay cả khi sự phụ thuộc vào
dầu mỏ Trung Đông giảm, bất ổn và xung đột ở vùng Vịnh Ba Tư vẫn sẽ ảnh hưởng đến
chúng ta, kể từ khi thị trường dầu mỏ hoạt động trên cơ sở toàn cầu. Do đó, an
ninh quốc gia của Hoa Kỳ phụ thuộc vào sự ổn định chính trị ở Trung Đông, cũng
như những biến động, bất trắc của các vùng hay khu vực sản xuất dầu khí khác.
Ngoài ra để giúp đảm bảo sự ổn định như vậy, Hoa Kỳ phải phát triển các nguồn
nhiên liệu thay thế, mở rộng sản xuất khí đốt tự nhiên, mạng lưới, và các cơ sở;
tận dụng lợi thế của điện hạt nhân, công nghệ than sạch, và các chương trình bảo
tồn năng lượng tích cực hơn.
Thứ ba, lợi ích an
ninh lâu dài của Hoa Kỳ vẫn đang được kết nối với các đồng minh, liên minh, và
các tổ chức quốc tế. Một chính sách đối ngoại của đảng Cộng hòa phải xem các
liên minh và các tổ chức quốc tế như các phần mở rộng ảnh hưởng, thay vì coi đó
là những thực thể hạn chế sức mạnh của chúng ta. Không có quốc gia duy nhất
nào, kể cả Hoa Kỳ với tất cả sức mạnh quân sự rộng lớn và quyền năng kinh tế đồ
sộ, lại có thể đơn độc đáp ứng một cách thành công, hiệu quả đối với những thách
thức của thế kỷ 21. Chiến thắng cuộc chiến tranh chống khủng bố, chẳng hạn, sẽ
vẫn yêu cầu phải có một mạng lưới liền mạch của các mối quan hệ tương tác nêu
trên.
Hoa
Kỳ do đó phải giúp tăng cường các thể chế toàn cầu và củng cố các liên minh, khởi
đầu với Liên Hiệp Quốc (LHQ ) và NATO (Liên Phòng Bắc Đại Tây Dương).
Cũng
như tất cả các tổ chức khác, LHQ cũng có những giới hạn của chính nó. LHQ đang cần
cải cách. Đã rất nhiều lần LHQ, đặc biệt là Đại Hội Đồng, không đương đầu, giải
quyết nổi các hình thức tệ hại nhất của thái độ chính trị và hành động vô trách
nhiệm. Tuy nhiên, LHQ hôm nay đã trở nên một thiết chế cần thiết hơn bao giờ hết.
Những thách thức toàn cầu của chủ nghĩa khủng bố, chống phổ biến vũ khí hủy diệt
hàng loạt, nạn đói, bệnh tật và nghèo đói, đòi hỏi nhiều phản ứng đa phương và
các sáng kiến chủ động.
Liên
Hiệp Quốc có một vai trò thiết yếu trong quá trình chuyển tiếp, thay đổi sau
xung đột, cung cấp tính hợp pháp quốc tế và chuyên môn trong những nơi như Đông
Timor, các nước vùng Balkans, Afghanistan, và Iraq. Việc trợ giúp, để mang lại
sự ổn định và dân chủ cho những khu vực gặp khó khăn, đang cần những nỗ lực quốc
tế lớn lao. Nhiều lúc Hoa Kỳ có thể và cần phải lãnh đạo, nhưng nên khôn ngoan,
tế nhị chia sẻ thẩm quyền cho - cũng như cùng chia sẻ những gánh nặng, chi phí
và rủi ro của các hoạt động, chiến dịch như thế với các quốc gia khác.
Cốt
lõi của mạng lưới liên minh của Hoa Kỳ phải là một sự tái cam kết, quyết tâm gắn
bó trở lại với quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương. Lợi ích chung của Hoa Kỳ và
châu Âu đang vượt qua đỉnh điểm giới hạn của cuộc chiến tranh lạnh. Như Tổng thống
Gerald Ford đã phát biểu tại Hội nghị năm 1975 về An Ninh và Hợp Tác Châu Âu ở
Helsinki, "Chúng ta đang chia sẻ, liên kết với nhau bởi một quan hệ mật
thiết nhất trên tất cả quan hệ, đó tình yêu nhiệt thành của chúng ta đối với tự
do và độc lập, không biên giới quê hương mà chỉ có tình người."
NATO
vẫn phải là trung tâm đồng minh trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Sự kết thúc của
Chiến Tranh Lạnh đã có nghĩa là một sự thay đổi trong trọng tâm chiến lược của
NATO từ việc bảo vệ châu Âu chuyển sang Trung Đông, Trung Á, và châu Phi. Do
đó, nó sẽ đòi hỏi một học thuyết chiến lược mới cho thế kỷ XXI.
Như
khi NATO điều chỉnh đối với việc tham gia, mở rộng cho các thành viên mới và cả hoàn cảnh chiến lược mới,
các thành viên của NATO phải giải quyết những cách biệt trong khả năng quân sự
và chi tiêu giữa các nước thành viên. Hoa Kỳ không thể bị bắt buộc hay mong đợi
sẽ tiếp tục gánh vác những chi phí bất tương xứng. Điều này có nghĩa là các đồng
minh của chúng ta sẽ phải tái xác định lại quyết tâm của họ đối với liên minh.
Sức mạnh quân sự sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng, sống còn và ở trung
tâm điểm, nhưng sự thành công trong tương lai của NATO sẽ được xác định bởi khả
năng của các thành viên trong việc tăng cường và mở rộng hợp tác trong việc thực
thi chỉ huy, điều hợp, tình báo, thực thi pháp luật và các lĩnh vực kinh tế,
ngoại giao, và nhân đạo.
Nguyên tắc thứ
tư
của một chính sách Cộng hòa cho rằng Hoa Kỳ phải tiếp tục hỗ trợ cải cách dân
chủ và kinh tế, đặc biệt là vùng Trung Đông và phụ cận. Chúng ta không thể đánh
mất cuộc chiến tư tưởng. Ở nhiều nước phát triển và trên khắp thế giới Hồi
giáo, chúng ta đang chứng kiến một cuộc đấu tranh "bên trong nền văn
minh" (intracivilizational), một phần là do những thách thức thế hệ do biến
đổi về dân số và tình trạng phát triển. Đây không phải là một cuộc đụng độ của
các nền văn minh, như cách đánh giá của Samuel Huntington, nhưng đó là đụng độ
ngay trong một nền văn hóa và xã hội về các mô hình quản trị đất nước.
Các
quốc gia không phải được xây dựng từ bên ngoài vào; mà được xây dựng, hình
thành từ bên trong trở ra. Nhiều xã hội Hồi giáo đang tìm kiếm một con đường có
khả năng cân bằng giữa tính hiện đại, truyền thống, và nhu cầu của một thế hệ
trẻ đòi hỏi tự do chính trị cởi mở, rộng lớn hơn và những cơ hội kinh tế công bằng
hơn. Iran, Pakistan, Saudi Arabia, Afghanistan, Indonesia, và Iraq là những quốc
gia đi đầu của cuộc tranh đấu này.
Các
sáng kiến chủ động để thúc đẩy cải cách chính trị phải được dựa trên những
đánh giá thực tế về nhu cầu và những động lực của mỗi quốc gia, chứ không phải
dựa trên ý thức hệ chính thống.
Như
Henry Kissinger đã ghi nhận, "một chính sách đối ngoại để thúc đẩy dân chủ
cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với thực tế địa phương hoặc khu vực, hoặc
nó sẽ thất bại. Trong việc mưu cầu dân chủ, một chính sách hợp lý - như trong
các lãnh địa khác - là một nghệ thuật có thể đạt được."
Chúng
ta nên hỗ trợ thay đổi theo hướng dân chủ thông qua quan hệ đối tác với các
chính phủ thân thiện và những người có đầu óc dân chủ ở nước ngoài bằng cách tham
khảo ý kiến, hoạt động ngoại giao, thúc đẩy kinh tế, xây dựng các tiêu chuẩn
nhân quyền, và các biện pháp có định hướng trên năng lực hướng tới thành công.
Một mô hình thành công của chính sách đối ngoại trong lĩnh vực này là Georgia (Gru-dia),
nơi các trợ giúp của Hoa Kỳ tập trung cho các thiết chế dân chủ và các sáng kiến
chống tham nhũng, qua thời gian, đã giúp mang lại sự thành công của cuộc
"Cách mạng hoa hồng" năm 2004.
Chiến
lược của chính quyền Bush, "Chiến lược Thúc đẩy Tự Do" (Forward
Strategy for Freedom) cho Trung Đông và phụ cận, bao gồm Sáng kiến Đối tác
Trung Đông và gia tăng tài trợ đối với Quỹ Quốc gia vì Dân chủ (NED), là một khởi
đầu tốt cho một chương trình lớn lao và thực dụng vì sự thay đổi trong khu vực
này. Nền dân chủ bền vững sẽ phụ thuộc vào các tổ chức hỗ trợ giáo dục, quyền
phụ nữ, và khu vực tư nhân phát triển. Nhưng nó cũng sẽ phụ thuộc vào tiến
trình (hướng tới việc) giải quyết các tranh chấp lâu dài trong khu vực như cuộc
xung đột Israel-Palestine. Vấn đề (này) không đứng yên mà nó đang trở nên xấu
hơn - và như đã xảy, nó làm tăng năng lực cho giới chính trị cứng rắn, gia tăng
các hành vi cực đoan bạo lực trên toàn khu vực và trên thế giới.
Hoa
Kỳ và các đồng minh, do đó, phải phát triển một trật tự an ninh khu vực cho
vùng Trung Đông và phụ cận, bao gồm Israel, đồng minh Ả Rập của chúng ta, Iraq,
Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, và Iran. An ninh khu vực có thể là một cầu nối cho một cuộc
đối thoại của Mỹ với Iran và là một phương tiện khác để xử lý việc Iran hỗ trợ
cho chủ nghĩa khủng bố và chương trình hạt nhân của Iran. Đối phó với an ninh
khu vực ở Trung Đông và phụ cận, và đặc biệt là với Iran và Iraq, sẽ đòi hỏi sự
hợp tác khẩn thiết, sâu sắc với các đồng
minh châu Âu và đồng minh khu vực của chúng ta. Quyết định của nhà lãnh đạo
Libya Muammar al-Qaddafi[i],
để từ bỏ tham vọng hạt nhân của ông ta và tham gia vào cộng đồng thế giới, có
thể là một ví dụ cho Iran và những tiềm năng "tham-vọng hạt-nhân"
khác ở Trung Đông và các nơi khác.
Thứ năm, Tây bán cầu phải
được chuyển lên mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Quá
trình hội nhập kinh tế đã bắt đầu với Hiệp định Thương Mại Tự Do Bắc Mỹ (NAFTA)
phải phát triển thành một chương trình toàn diện cho toàn bộ Tây bán cầu. Năng
lượng, thương mại, giao thông vận tải, và nhập cư, cũng như chủ nghĩa khủng bố
và buôn lậu ma túy, tất cả đều quan trọng đối với lợi ích an ninh quốc gia của
chúng ta.
Đặc
biệt, mối quan hệ với Mexico cũng quan trọng như bất kỳ chính sách đối ngoại
nào của Mỹ. Mexico có gần 100 triệu người và trên 3000 Km biên giới với Hoa Kỳ;
nó là cầu nối giữa Bắc và Nam Mỹ và một trục chiến lược kinh tế của chúng ta và
mối quan hệ an ninh ở Tây bán cầu. Hoa Kỳ do đó nên khuyến khích cải cách, bao
gồm cả việc tự do hóa luật đầu tư nước ngoài của Mexico, đặc biệt là trong lĩnh
vực năng lượng. Cam kết cải cách ở Mexico nên được xem như là một đầu tư vào
lĩnh vực an ninh và thịnh vượng cùng chia sẻ với chúng ta, không được coi là một
viện trợ nước ngoài.
Những
người đã chỉ trích NAFTA đã quên mất một trong những phát triển quan trọng nhất
của thập kỷ vừa qua trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Tổng thương mại giữa
Hoa Kỳ, Mexico và Canada tăng hơn gấp đôi trong mười năm đầu tiên (với NAFTA).
Chúng ta phải tiếp tục tiến bộ này. Hiệp định thương mại đa phương như Hiệp định
thương mại tự do Mỹ-Chile sẽ xây dựng trên sự thành công của NAFTA bằng cách
thúc đẩy pháp trị (rule of law), quyền sở hữu tư nhân, chính quyền cởi mở và hợp
tác khu vực. Hiệp định Thương mại Tự do Trung Mỹ (CAFTA) và Khu vực Thương mại Tự
do châu Mỹ (FTAA) là những bước quan trọng để hội nhập kinh tế và chính trị sâu
sắc hơn giữa tất cả 34 quốc gia Tây bán cầu.
Hội
nhập văn hóa của Hoa Kỳ với Tây bán cầu đã tiến triển tốt đẹp hơn trong nhiều
năm qua. Hơn 50 phần trăm những người nhập cư vào Mỹ là đến từ châu Mỹ La tinh.
Đến năm 2050, gần 25% dân số Hoa Kỳ được dự báo là người gốc Tây Ban Nha. Là một
phần của chương trình nghị sự lớn hơn này, Hoa Kỳ và Mexico cần phải làm việc với
nhau về chính sách nhập cư (di dân) trên cơ sở ưu điểm của nó chứ không phải không
phải sự nghi ngại. Nhập cư là một phần quan trọng của ưu điểm (sức mạnh) và sức
sống của Mỹ. Một Mexico cùng với châu Mỹ La tinh thịnh vượng và ổn định hơn sẽ
giúp hạn chế nhập cư bất hợp pháp và cải thiện môi trường thuận tiện cho thương
mại và đầu tư trong cả khu vực.
Thứ sáu, Hoa Kỳ phải
làm việc với các đồng minh của mình để chống lại nghèo đói và sự lây lan của bệnh
tật trên toàn thế giới. Đây là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất
trong việc quản trị ở các nước đang phát triển. Dịch cúm gia cầm, hội chứng hô
hấp cấp tính nặng (SARS), HIV/AIDS, bệnh lao, sốt rét, và các bệnh dịch khác đều
có thể bùng phát cấp tính ở châu Phi và châu Á, nhưng sẽ nhanh chóng lan ra
toàn cầu và gây ra những tác động hệ lụy phức tạp, nguy hiểm khó lường. Nhà sử
học WilliamMcNeill đã viết trong cuốn Bệnh
dịch và các Dân tộc (Plagues and Peoples) rằng bệnh truyền nhiễm là "một
trong những thông số cơ bản và các yếu tố quyết định của lịch sử nhân loại."
Tốc độ du lịch quốc tế nhanh chóng hiện nay đang khiến thời gian cần để ngăn chặn
một đợt bùng phát cúm gia cầm hoặc SARS trở nên rất gấp gáp. Và châu Phi sẽ
không thể có khả năng đạt được sự phát triển bền vững nếu không có một sáng kiến
đột phá để kiểm soát, trị liệu và diệt trừ bệnh AIDS, căn bệnh giết người số một
của tiểu vùng cận-Sahara châu Phi.
Nguyên tắc thứ bảy và cũng là cuối
cùng của một chính sách đối ngoại của đảng Cộng Hòa là tầm quan trọng của ngoại
giao, của mối liên hệ mật thiết và hình ảnh tốt đẹp đối với quần chúng. Điều cốt
yếu cho sự lãnh đạo là niềm tin, sự tín nhiệm. Do đó lòng bất mãn, nghi vấn của
quần chúng về những sách lược đối ngoại của Hoa Kỳ sẽ làm suy yếu đi các nỗ lực
của chúng ta trong cuộc chiến chống khủng bố và thực thi các sáng kiến ở Trung
Đông và khu vực.
Các sáng
kiến "ngoại giao, quan hệ công chúng" (public
diplomacy) đòi hỏi phải có một định hướng chiến lược. Câu trả lời không nằm trong
một chiến dịch truyền thông hào nhoáng hay việc đầu tư được nhiều thời lượng quảng
cáo trên truyền thông (truyền thanh, truyền hình) cho những diễn giả nổi danh. Ngược
lại, chúng
ta phải có nhiều hơn nữa các cán bộ, viên chức ngoại giao có khả năng thu hút
và tham gia với công chúng trong quốc gia sở tại, gặp gỡ người dân, lắng nghe họ nói
và phối hợp các
thông tin này vào một
chiến lược ngoại giao công
chúng hiệu quả.
Trong khi đó, các chương trình
trao đổi nghiệp vụ và giáo dục - nền tảng của "ngoại giao, quan hệ công chúng" trong nhiều năm qua - đã bị
thụt lùi trở lại bởi vấn đề "An
Ninh Nội Địa" và chính sách chiếu khán nhập cảnh sau ngày 11 tháng 9. Đây là một phản ứng dễ
hiểu trong ngắn hạn, nhưng ngay bây giờ bắt buộc phải quay trở lại tiếp tục các chương trình trao đổi và cải cách nhập cư – những vấn đề đã phải chịu nhiều thiệt
hại vì an ninh và tính chất "mở cửa”.
"Ngoại giao, quan hệ công chúng" là mối liên hệ giữa các chính sách của Hoa Kỳ và việc nhận thức mục đích của nó. Mục đích của Hoa Kỳ trong các vấn đề thế giới
luôn luôn phải được
dựa trên những lợi ích và giá trị của Hoa
Kỳ, nhưng cũng phải được cân bằng với sự hiểu
biết rằng những lợi ích này không cùng một lúc loại trừ những lợi ích của bạn
bè và đồng minh. Tổng thống
Dwight D. Eisenhower đã thể hiện điều này rất hay trong bài diễn văn chia tay với quốc dân:
“Trong suốt cuộc phiêu lưu của nước Mỹ với một chính
quyền tự do, các mục đích cơ bản
của chúng ta là
đã và đang gìn giữ hòa bình; thúc đẩy
các
thành tựu của loài người, và củng cố, đề cao tự do, nhân phẩm, và sự
chính trực giữa con người với con người, giữa quốc gia
với quốc gia. Nếu chúng ta phấn
đấu ít hơn, chúng ta sẽ không xứng là
một dân tộc tự do, một
dân tộc đầy
đức tin. Bất kỳ một thất bại nào
đều có thể truy nguồn từ sự kiêu ngạo, từ sự thiếu
hiểu biết hoặc từ
việc rời bỏ những giá trị đó, chúng ta sẽ tự gây tổn thương và đau buồn cho tất cả chúng ta, dù ở trong nước hay
ngoài nước.”
Các
quan hệ chiến lược
Đảng
Cộng hòa phải hiểu rằng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong những năm tới sẽ
đòi hỏi sự quan tâm cẩn trọng đến bốn mối
quan hệ sống còn - với Liên minh châu Âu (EU), Nga, Ấn Độ, và Trung Quốc. Quan
hệ Hoa Kỳ với các cường quốc này, sẽ rất quan trọng cho sự ổn định và an ninh toàn
cầu.
Liên Minh Châu Âu (EU) sẽ là một đại diện trong các khối quyền lực quan trọng nhất của thế kỷ XXI. Chính sách đối ngoại của Mỹ cần nhận ra EU như là một lực lượng địa chính trị của riêng nó, khác biệt với, mặc dù vẫn liên kết với, các liên minh an ninh NATO. Mối quan hệ của Washington với NATO trong thực tế sẽ được tăng cường thông qua việc công nhận về tầm quan trọng ngoại giao và kinh tế của mối quan hệ Hoa Kỳ-EU.
EU bao gồm 25 quốc gia với
biên giới nội bộ mở cửa cho thương mại
và đầu tư. Giao thương giữa Hoa Kỳ-EU, tạo nên mối quan hệ thương mại và đầu tư lớn nhất trên thế giới,
với hơn 1 nghìn
tỷ USD trao đổi hàng năm. Ngoài việc
gia tăng mối liên hệ kinh tế khổng lồ này, cả Hoa Kỳ
và EU còn có thể được hưởng lợi thêm bằng cách hợp tác để
giải quyết các vấn đề toàn cầu của
kỷ
nguyên mới. Cả hai cũng sẽ
được (hưởng) lợi từ
việc Thổ Nhĩ Kỳ trở
thành thành viên EU.
Trong khi đó, kể từ khi sự sụp đổ của Liên Xô vào
năm 1989, Nga đã phải vật
lộn với cải cách chính trị và kinh tế. Hoa Kỳ phải tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực cải cách của
Nga. Tổng thống
Vladimir Putin đã làm việc chặt chẽ với Hoa Kỳ trong bốn
năm qua để mang lại cải cách chính trị và
kinh tế rộng lớn hơn cho Nga trên con đường gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), nhưng
Nga cần phải làm
nhiều hơn nữa.
Tăng cường
mối quan hệ Hoa Kỳ-Nga có nghĩa là phát triển thương mại
song phương có hiệu quả hơn, mà
cuối cùng sẽ tạo ra công ăn việc làm, an ninh và thịnh vượng ở cả hai nước. Hoa Kỳ nên thúc đẩy, thu
hút Nga như một đối tác năng lượng chiến
lược. Nga đã chứng
minh có những trữ lượng dầu vượt quá 60 tỷ thùng và trữ lượng
khí đốt tự nhiên lên
đến khoảng 1.700 nghìn tỷ feet khối. Vì chính sách năng lượng của Mỹ nhằm
đảm bảo nguồn
năng lượng đa dạng để đáp ứng nhu cầu của
Hoa Kỳ, chúng ta phải tìm kiếm một chính sách trong đó có
Nga là một đối tác kinh doanh
chiến lược.
Với hơn một tỉ
người, Ấn Độ được thiết lập để trở
thành quốc gia đông dân nhất trên thế giới vào giữa thế kỷ 21. Nền dân chủ
lớn nhất thế giới,
phải đối mặt với nhiều thách thức về quản trị
và dân số như đã mô tả ở trên, nhưng nó cũng có tiềm năng lớn. Một mối quan hệ chiến
lược Hoa Kỳ-Ấn Độ
sẽ mang lại lợi ích cho các quyền lợi của Mỹ không
những
chỉ ở Trung và Nam Á,
mà
còn rộng lớn
hơn. Đối với các mối quan hệ để đạt được
tiềm năng đầy đủ
của nó, tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ phải tự do hóa nền kinh tế và tiếp tục làm việc với Pakistan để tim
ra cách giải quyết cuộc xung đột Kashmir.
Mối quan hệ
chiến lược của chúng
ta với Ấn Độ không nhất thiết phải đánh
đổi bằng cái giá của mối
quan hệ (với) Pakistan, Hoa Kỳ phải
làm việc với cả
hai nước để ngăn chặn bất ổn
và xung đột khu vực.
Đối
với Trung Quốc, nó
đã nằm trong những trang này trong năm 1967 (của tổng thống
Nixon), khi Richard Nixon đã có những chỉ dấu cho sự mở đầu lịch sử
của quan hệ, ngoại giao của ông. Ông (Nixon) đã không có lập trường chống đối đối với chính trị và các chính sách của cộng sản
Trung Quốc, nhưng kết luận rằng, "về lâu dài, nó có nghĩa là kéo Trung Quốc trở lại
vào cộng đồng thế
giới - nhưng là một
quốc gia đồ sộ và đầy
tiềm năng phát triển, chứ không phải là trung tâm của cuộc cách mạng thế giới ". Những tổng thống (Hoa Kỳ) kế nhiệm đã theo chân Nixon, và đạt hiệu quả tốt. Thách thức đối với Hoa Kỳ
ngày hôm nay
là làm thế
nào để đảm bảo rằng
Trung Quốc vẫn tiếp tục trên con đường bình thường (hóa-
ngoại giao) và ổn định. Là
nơi sinh ra của gần 1,3 tỷ người và
là một cường
quốc thế giới với tiềm năng kinh tế gần như không giới hạn, Trung Quốc phải tiếp tục
được khuyến khích hướng tới sự hội nhập mạnh
hơn nữa trong khu vực và có trách nhiệm toàn cầu.
Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ không
phải lúc nào cũng luôn
đồng thuận, và
Hoa Kỳ không nên né tránh bày tỏ mối quan tâm về quyền
con người và các
quy định của pháp luật. Nhưng mối
quan tâm, bày tỏ sẽ được nghe rõ ràng hơn
và dễ
tiếp thu hơn trong bối cảnh của một mối quan
hệ song phương mạnh mẽ và tin
cậy. Thương mại, một
mẫu số chung lớn giữa
hai nước, không
được xem như là một cái cớ để trì hoãn các
quyết định khó khăn hoặc để biện bạch cho các hành vi (thái độ) gây rối, mà phải là một
cơ hội để xây dựng mối quan
hệ ổn định,
trong đó các vấn đề khác cũng có thể thảo
luận được.
Có
ba lĩnh vực đặc biệt sẽ cho thấy mối quan
hệ giữa Trung Quốc
và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục được sâu sắc hơn hay
không.
Thứ
nhất, vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ rất quan trọng trong việc giúp đỡ để
khống chế các tham vọng hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Mối quan hệ đặc biệt
của Trung Quốc với
Bắc Triều Tiên, cho phép Trung Quốc có một vai trò độc nhất vô nhị trong việc khuyến khích Bình Nhưỡng có những lựa chọn
đúng đắn. Nếu không
có Trung Quốc, ảnh
hưởng của chúng ta với Bắc Triều Tiên sẽ bị giảm thiểu.
Thứ hai, Trung
Quốc sẽ là phương tiện trong các nỗ lực toàn cầu để giảm
sự gia tăng của công nghệ tên lửa và các công nghệ kép dân-sự-và-quốc-phòng. Chính phủ Trung Quốc đã công bố gần đây các quy định về kiểm soát xuất khẩu
liên quan đến
tên lửa và các
tác nhân sinh học dân-sự-và-quốc-phòng và các công nghệ. Nhưng Trung Quốc phải thực thi
các quy đinh luật pháp của mình một cách cứng rắn,
và minh bạch hơn, bắt buộc ngay cả
các công ty của quốc gia và cá nhân của Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho bất
kỳ một vi phạm nào khi bị phát hiện.
Thứ ba, Hoa
Kỳ ủng hộ giải pháp hòa bình của
sự khác biệt
giữa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Đài Loan. Việc tăng cường quan hệ kinh tế giữa hai bờ eo biển là một
trong những xu hướng tích cực nhất trong khu vực. Tuy nhiên, việc triển
khai liên tục các tên lửa và các lực lượng vũ trang khác
nhằm mục tiêu
chống Đài Loan sẽ tạo ra
sự nghi ngờ và
gia tăng căng thẳng. Hoa Kỳ đã
cam kết chính sách "một Trung Quốc", và nghĩa
vụ của mình theo Đạo
luật Quan hệ Đài Loan. Ngoại trưởng Colin Powell đã
diễn tả điều này một cách tuyệt vời, khi ông lưu ý rằng "liệu Trung
Quốc lựa chọn hòa bình hay cưỡng chế để giải quyết
sự khác biệt
giữa
Trung Quốc và Đài Loan sẽ cho chúng ta
biết rất nhiều về loại vai
trò của Trung Quốc đang tìm kiếm, ứng xử với các nước láng giềng và
tương
tự đối với chúng ta."
"Thắp sáng bằng tia chớp"
Nắm bắt cơ hội
trong khủng hoảng đã được xem là dấu hiệu tiêu
chuẩn của lãnh đạo ưu việt. Mười ba năm trước,
Tổng thống George H.W. Bush đã đánh giá đúng mức
về Saddam Hussein và không những đã làm đảo ngược được sự sáp nhập Kuwait của Iraq mà còn vẽ ra một
hành trình cho hướng đi của thế giới thời hậu chiến tranh lạnh. Trong khi tìm kiếm hợp tác Liên Xô chống lại Iraq,
Tổng thống Bush đã
nói với
Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev,
"Tôi muốn, đêm ngày mai, sẽ đi nói với người dân Mỹ là hãy
đóng lại quyển sách về Chiến
tranh Lạnh và chỉ cho họ thấy một trật tự mới của thế giới trong đó chúng ta sẽ hợp
tác với nhau."
Ở thời điểm đầu thế kỷ mới này, đảng Cộng Hòa tin rằng Hoa Kỳ phải tiếp tục là một lực đẩy cho nhân loại, tự do, và tiến bộ. Đảng Cộng Hòa hiểu rằng một chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ thể hiện được rõ ràng bản sắc, các niềm tin và lợi ích sinh tử của chúng ta, sẽ là di sản của 200 năm đức tin của người Mỹ vào định mệnh của họ. Hoa Kỳ đã và đang là một lực đẩy trung tâm cho một thế giới tự do, thịnh vượng và hòa bình. Như người Hy Lạp đã ghi nhận cách đây từ hàng ngàn năm: "tính cách tạo nên số phận."
Với
những ngôn từ vẫn có thể còn vang vọng tới ngày hôm nay, trong diễn văn nhậm chức
lần thứ hai, Tổng thống
Ronald Reagan đã bắt được cái thần chủ
nghĩa lạc quan luôn nằm ở trung tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Ông mô tả thế giới như được
"thắp sáng bởi tia chớp". Vì
vậy, quá nhiều thay đổi và sẽ còn
thay đổi, nhưng cũng rất nhiều thứ còn nguyên, và
vượt được qua cả thời gian."
Xưa cũng như nay, mục đích trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là phác
ra một lộ trình mới trong một thế giới được "thắp sáng
bởi tia chớp".
Chính sách đối ngoại
của Hoa
Kỳ phải chuyển tải được sự năng động và tính cấp thiết của thế kỷ mới này. Mục đích này không phản ảnh sự
ngạo mạn đi kèm với quyền
lực siêu cường, cũng không phải là niềm
xác tín rằng sức mạnh, quyền lực và các nguồn lực của chúng ta là vô
tận.
Tóm lại, chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Hòa là phải đoàn kết được
nhân dân trong nước và qui tụ được nhiều bạn bè và
ảnh hưởng ở nước ngoài để
dự án vĩ đại của chúng ta làm cho thế giới ngày càng trở nên tự do và tốt đẹp
hơn cho các thế hệ
nối tiếp trở thành hiện thực.○
Lưu
ý của Biên tập viên:
Đây là bài thứ ba trong loạt các bài tiểu luận về các quan tâm trong chính sách đối ngoại cho tổng thống kế tiếp.
Người dịch: Minh Tân
Nguồn:
A
Republican Foreign Policy Foreign Affairs.
* Cập nhật ngày 17/01/2013: Thượng nghị sỹ Robert Menendez, thuộc Đảng Dân chủ, từ tiểu bang New Jersey có nhiều khả năng thay thế John Kerry ở chức vụ Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện.
* Cập nhật ngày 17/01/2013: Thượng nghị sỹ Robert Menendez, thuộc Đảng Dân chủ, từ tiểu bang New Jersey có nhiều khả năng thay thế John Kerry ở chức vụ Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện.
[i]
Lưu
ý bài này viết năm 2004 khi Muammar al-Qaddafi chưa bị lật đổ và chết sau Cách mạng Mùa xuân
năm 2011.