Xem phần: (1)
Đã có những gợi ý phế truất Donald J. Trump khỏi Nhà Trắng trong vòng 2 năm
tới. Về lý thuyết, đề xuất này hoàn toàn có thể do Hiến pháp Mỹ,
ngay từ lúc có hiệu lực vào năm 1788, đã trù liệu phế truất tổng
thống bất cứ lúc nào, ngay tại Điều I. Đó là hệ thống chính trị
Mỹ. Trong khi đó, hệ thống chính quyền do Đảng Cộng sản Việt Nam
dựng lên ngay từ thời Hồ Chí Minh lại có những trù liệu (như Điều 50, 51
Hiến pháp 1946) nhằm chạy hết tội cho lãnh đạo.
David Hume, triết gia Scotland, năm 1754 đã tỏ ra buồn phiền về việc con người thường ít tìm hiểu các hệ
thống chính quyền trong khi họ vẫn thường phải sống dưới các chính
quyền bạo ngược, suy đồi. Hume biết rõ tạo dựng một hệ thống chính
trị mới không dễ như “xây một con tàu mới”, nhưng, theo ông, trí tò mò
con người rất cần phải đào sâu vào các hệ thống chính trị để xác
định những điều hay, dở và tìm ra mô hình tốt nhất. Hume cũng hiểu
chính trị không phải là vấn đề dễ hiểu và hấp dẫn với tất cả mọi
người. Nhưng không có cách nào khác nếu con người muốn có một chính
quyền tử tế, hoặc bớt bạo ngược hơn.
FEDERALIST 39
Phạm Hồng Sơn
dịch
Hiến pháp và các nguyên tắc cộng hòa
Viết
cho the Independent Journal
Thứ
Tư, 16 tháng Một 1788*
James
Madison
Kính gửi Nhân Dân tiểu Bang New York:
Bài viết trước đã tóm lược các dữ kiện nhằm đưa
ra một đánh giá công bình mô hình chính quyền do Hội nghị đề xuất, bây giờ
chúng ta bắt tay thực hiện sự đánh giá này. Câu hỏi đầu tiên tự nổi lên là phải
chăng dạng thức và đặc tính tổng quát của chính quyền tuân thủ nghiêm tính chất
cộng hòa. Điều hiển nhiên là không có một dạng thức chính quyền nào khác có thể
tương hợp được với tài năng thiên bẩm của nhân dân Mỹ; với các nguyên tắc cơ
bản của cuộc Cách mạng; hoặc với quyết tâm cao cả của những con người đã tận
hiến cho tự do muốn sử dụng mọi kinh nghiệm chính trị đã có của chúng ta về
năng lực tự quản của loài
người. Vì vậy, nếu kế hoạch của Hội nghị bị phát hiện đã rời xa tính chất cộng
hòa, những người ủng hộ chắc chắn phải từ bỏ nó vì không còn bảo vệ được nữa.
Vậy, những đặc thù của một nền cộng hòa là gì?
Nếu tìm một câu trả lời dựa vào sự áp dụng của các học giả chính trị trong hiến
pháp của các quốc gia khác nhau, chứ không phải căn cứ trên các nguyên lý,
chúng ta sẽ không thể tìm được một câu trả lời hoàn hảo. Hà Lan, không một
thành tố nào trong quyền lực tối cao ở quốc gia này xuất phát từ dân chúng, vẫn
gần như được tất cả định danh là một nước cộng hòa. Cùng cái tên đó cũng được
dành cho Venice[1]
nơi quyền lực tuyệt đối ngự trên toàn dân theo cách tuyệt đối nhất bằng một
nhóm nhỏ quí tộc thế tập. Ba Lan, một chính quyền có sự pha trộn kém cỏi nhất
giữa quí tộc trị và quân chủ trị, cũng được tôn vinh bằng đúng danh hiệu đó.
Chính quyền Anh, nơi chỉ có một nhánh quyền lực mang tính cộng hòa[2]
là sự phối hợp giữa quí tộc thế tập trị (hereditary aristocracy) và quân chủ
trị (monarchy)[3],
vẫn thường xuyên được liệt, một cách cũng sai lầm, vào danh mục các nước cộng
hòa. Những ví dụ này, gần như vừa khác nhau và vừa khác với một nền cộng hòa
đúng nghĩa, cho thấy thuật ngữ cộng hòa đã được sử dụng hết sức bất chính xác
trong các diễn ngôn chính trị.
Nếu chúng ta lấy ra một nguyên
tắc chung cho các nguyên lý vận hành khác nhau của các chính thể đã tồn tại,
chúng ta có thể định nghĩa một nước cộng hòa, hoặc ít nhất danh tính này có thể
áp dụng,
là một chính quyền có tất cả mọi quyền lực đều trực tiếp hoặc gián tiếp có khởi
nguồn từ đa số dân chúng, và được điều hành bởi những người có nhiệm kỳ bấp
bênh [4]trong
một thời hạn xác định hoặc có nhiệm kỳ phẩm hạnh[5].
CỐT YẾU đối với dạng chính thể này là nó có nguồn
từ một bộ phận lớn của xã hội[6],
không phải từ một tỷ lệ không đáng kể hay từ một giai tầng ưu ái nào đó của xã
hội; nếu khác, một nhúm quí tộc bạo quyền, chuyên tiến hành trấn áp thông qua
những kẻ dưới quyền, cũng sẽ mong mỏi đứng vào hàng ngũ cộng hòa, và tuyên xưng
chính quyền của họ với danh hiệu cao cả cộng hòa. ĐIỀU ĐỦ cho chính quyền kiểu
này là những kẻ điều khiển nó phải do người dân, trực tiếp hay gián tiếp, lập
nên; và nắm giữ các chức vụ theo một trong hai cách vừa nêu[7].
Nếu khác, mọi chính quyền trong Hợp Chúng Quốc (United States)[8],
cũng như mọi chính quyền bình dân[9], với cấu tạo hoàn hảo hoặc vận hành tốt
đến đâu, cũng sẽ không có phẩm tính cộng hòa. Nhìn vào hiến pháp của mọi tiểu
Bang trong Liên hiệp[10],
một số viên chức chính quyền chỉ được người dân lập qua cách gián tiếp. Đa phần
hiến pháp cho thấy ông thống lãnh hành pháp đang được chọn như vậy.
Một hiến pháp còn cho thấy cách bổ nhiệm này được
áp dụng cả cho một nhánh của lập pháp đa viện. Nhưng theo mọi hiến pháp, nhiệm
kỳ của tất cả các chức vụ cao nhất đều có thời hạn nhất định, và trong nhiều
trường hợp, cả hành pháp và lập pháp, trong khoảng một số năm. Cũng theo dự trù
của đa phần hiến pháp, và theo cả các ý kiến phổ biến và uy tín nhất trong lĩnh
vực này, các thành viên của bộ phận tư pháp sẽ giữ nhiệm sở chắc chắn theo
nhiệm kỳ phẩm hạnh.
Đối chiếu Hiến pháp của Hội nghị với tiêu chuẩn
vừa trình bày, chúng ta nhận ra ngay bản Hiến pháp giống y như tiêu chuẩn theo
nghĩa chặt chẽ nhất.
Cơ quan Đại diện[11],
giống ít nhất một nhánh trong các lập pháp tiểu Bang, được bầu trực tiếp từ đa
số dân chúng. Thượng viện, như Quốc hội hiện tại, và giống Thượng viện của
Maryland, sẽ được dân bầu gián tiếp[12].
Tổng thống sẽ do dân lựa chọn gián tiếp như trong phần lớn các tiểu Bang. Ngay
cả thẩm phán, cùng mọi viên chức khác của Liên hiệp, giống trong nhiều tiểu
Bang hiện nay, sẽ là lựa chọn, dầu là lựa chọn xa, của chính nhân dân[13].
Thời gian tại vị của các chức vụ cũng tuân theo tiêu chuẩn cộng hòa[14].
Giống trong tất cả các tiểu Bang, Cơ quan Đại diện sẽ được bầu lại định kỳ; cho
nhiệm kỳ hai năm[15]
như trong Bang South Carolina. Thượng viện được bầu cho nhiệm kỳ sáu năm[16],
một năm nhiều hơn so nhiệm kỳ Thượng viện Maryland, nhưng hơn hai năm so với
Thượng viện của New York và Virginia.
Tổng thống sẽ đảm nhiệm chức vụ trong thời hạn
bốn năm; giống tại New York và Delaware, thống lãnh bang được bầu cho thời hạn
ba năm, còn South Carolina là hai năm. Trong các tiểu Bang khác, thống lãnh
được bầu lại hàng năm. Tuy nhiên, trong nhiều Bang, hiến pháp không có qui định
đàn hặc[17]
đối với thống lãnh hành pháp. Ở Delaware và Virginia thống lãnh chỉ bị đàn hặc sau khi rời nhiệm sở. Nhưng Tổng thống của Hợp Chúng Quốc có thể bị đàn hặc bất cứ lúc nào trong khi tại vị. Nhiệm kỳ cho thẩm phán giữ nhiệm sở, như đương
nhiên cần phải, là theo nhiệm kỳ phẩm
hạnh. Nhiệm kỳ của các chức vụ bộ phận, nói chung, sẽ do luật qui định,
phù hợp với yêu cầu của từng chức vụ và theo kinh nghiệm của các Hiến pháp tiểu
Bang.
Nếu cần thêm dẫn chứng cho tính cách cộng hòa của
hệ thống này, chúng ta có thể nêu ra điểm quyết định nhất là nó cấm tuyệt đối
mọi tước vị quí tộc, cả ở chính quyền liên bang lẫn tiểu Bang; và sự bảo đảm
minh thị của nó về dạng thức cộng hòa cho từng chính quyền tiểu Bang.
“Song, Hội nghị chưa đủ gắn bó với dạng thức cộng
hòa.” những đối thủ của Hiến pháp dự thảo nói, “Lẽ ra họ cũng phải duy trì dạng
thức LIÊN BANG (federal)[18]
coi Liên hiệp là một BANG LIÊN (confederacy)[19]
của các nhà nước chủ quyền; thay vì thế, họ đã thiết kế một chính quyền QUỐC
GIA xem Liên hiệp là một loại HỢP NHẤT các tiểu Bang[20].
Và người ta còn hỏi những cải tiến táo bạo và
triệt để đó sẽ được thực hiện bằng thẩm quyền nào? Những gì đã diễn ra xung
quanh phản đối này buộc chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng hơn.
Chúng ta sẽ không truy tìm tính chính xác trong
nền tảng của phản đối này, nhưng để đánh giá công bằng sức thuyết phục của nó
chúng ta cần phải, thứ nhất, xác định rõ bản chất thực sự của chính quyền đang
bị chất vấn; thứ hai, điều tra lại những thẩm quyền đã cho phép[21]
Hội nghị đề xuất ra mô hình chính quyền như thế; thứ ba, xét xem bổn phận với
đất nước của những người khởi thảo có thể tạo ra quyền lực thường trực đến đâu
để sửa chữa các khuyết tật.
Thứ nhất, để xác định rõ bản chất thực của một
chính quyền, chúng ta cần phải xét các tương quan sau: nền tảng thiết lập chính
quyền; nguồn gốc sinh ra các quyền lực cơ bản của chính quyền; sự thực thi các
quyền lực này; phạm vi tác động của chúng; và thẩm quyền nào cho phép thay sửa
chính quyền đó trong tương lai.
Xem xét tương quan thứ nhất, chúng ta thấy, một
mặt, Hiến pháp được đặt trên nền tảng là sự ưng thuận và phê chuẩn của nhân dân
Mỹ thông qua những đại biểu được bầu cho mục đích quan trọng này; mặt khác, sự
ưng thuận và phê chuẩn này của nhân dân, không phải với tư cách cá nhân của một
toàn thể dân tộc mà là các cá nhân thuộc riêng các Nhà nước tiểu Bang độc lập
và khác biệt[22].
Đó cũng sẽ là sự ưng thuận và phê chuẩn của các tiểu Bang xuất phát từ thẩm
quyền tối cao của từng tiểu Bang - thẩm quyền của chính nhân dân ở đó. Do đó,
hành động thiết lập Hiến pháp không phải là hành động mang tính QUỐC GIA
(national)[23]
mà là mang tính LIÊN BANG (federal).
Do Hiến pháp sẽ là một bộ luật liên bang, không
phải luật quốc gia, như các thuật ngữ này đã được những người phản đối đồng ý;
và hành động của nhân dân, với nghĩa “nhân dân” của các tiểu Bang độc lập chứ
không phải nhân dân của một quốc gia tổng hợp[24],
cách nhìn này cho thấy rõ Hiến pháp không phải là kết quả từ quyết định của một
ĐA SỐ dân chúng của Liên hiệp, cũng không phải từ ĐA SỐ các Tiểu bang. Nó sẽ là
kết quả từ sự ĐỒNG ưng thuận của các tiểu Bang hợp thành[25],
không hề khác với sự ưng thuận thông thường trong cách bày tỏ, không phải qua
thẩm quyền lập pháp mà qua thẩm quyền của chính người dân.
Nếu nhân dân trong tương quan này đã được coi là
một khối dân tộc thì ý chí nhóm đa số của toàn bộ nhân dân Hợp Chúng Quốc sẽ áp
buộc nhóm thiểu số theo đúng cách mà nhóm đa số áp buộc nhóm thiểu số trong
từng tiểu Bang; và, ý chí của nhóm đa số sẽ phải được xác định bằng cách: hoặc
qua việc so sánh các lá phiếu cá nhân, hoặc qua việc coi ý chí của đa số trong
các tiểu Bang là thể hiện cho ý chí của đa số nhân dân Hợp Chúng Quốc[26].
Song, không có nguyên tắc nào vừa nói được áp
dụng. Mỗi tiểu Bang, khi phê chuẩn Hiến pháp, lại được coi là một thực thể có
chủ quyền, độc lập với tất cả các tiểu Bang khác và chỉ bị ràng buộc bởi chính
sự tự nguyện của bản thân. Do đó, Hiến pháp mới, nếu được thiết lập, sẽ là một
hiến pháp LIÊN BANG (federal), không phải một hiến pháp QUỐC GIA
(national).
Trong tương quan tiếp theo, các
nguồn gốc sinh ra các quyền lực thông thường của chính quyền, ta thấy Cơ quan Đại
diện lấy quyền lực từ nhân dân Mỹ; và
nhân dân sẽ được đại diện trong Cơ quan Đại diện theo cùng một tỷ lệ, và trên
cùng một nguyên tắc giống như họ có đại diện trong cơ quan lập pháp của từng
tiểu Bang[27]. Với đặc tính
này, chính quyền có tính chất QUỐC GIA, không phải LIÊN BANG. Mặt khác,
Thượng viện sẽ lấy quyền lực từ nguồn là các tiểu Bang – như những thực thể
chính trị đồng đẳng; các tiểu Bang sẽ có đại diện ở Thượng viện trên nguyên tắc
bình đẳng, giống như họ đang có trong Quốc hội hiện nay[28].
Đặc tính này cho chính quyền tính chất LIÊN BANG, không phải QUỐC GIA.
Quyền lực hành pháp sẽ xuất phát từ một nguồn
phức tạp hơn nhiều. Bầu Tổng thống sẽ do các tiểu Bang thực hiện trực tiếp tùy
theo đặc điểm chính trị của mỗi tiểu Bang. Phiếu bầu cho mỗi tiểu Bang sẽ được
phân theo một hệ số phức hợp: một mặt, coi các tiểu Bang là những thực thể khác
biệt nhưng đồng đẳng, mặt khác lại coi các tiểu Bang là các thành viên bất bình
đẳng của cùng một xã hội. Cuộc bỏ phiếu cuối cùng để chọn ra Tổng thống sẽ do
nhánh lập pháp gồm các đại diện quốc gia thực hiện[29];
nhưng trong cuộc bỏ phiếu đặc biệt này những người bầu được tập hợp thành các
phái đoàn riêng biệt dựa trên các nhóm chính trị khác nhau về quan điểm nhưng
bình đẳng về quyền[30].
Phương diện này làm cho chính quyền tương lai có tính chất phức hợp: ít nhất
các đặc tính LIÊN BANG cũng hiện diện nhiều như các đặc tính QUỐC GIA.
Về tương quan THỰC THI CHÍNH QUYỀN, Hiến pháp coi
sự khác nhau giữa chính quyền liên bang và chính quyền quốc gia nằm ở đặc điểm
này: quyền lực liên bang thực thi trên các thực thể chính trị cấu thành Bang
liên (confederacy) với các năng lực chính trị của chúng; quyền lực quốc gia
thực thi trên các công dân cá nhân thành viên của quốc gia với các năng lực
riêng của họ. Xét trên tiêu chí này, Hiến pháp có tính QUỐC GIA, không phải LIÊN
BANG mặc dù có thể không hoàn toàn đúng như thế. Trong nhiều tình huống,
nhất là khi phân giải bất đồng giữa các tiểu Bang, vấn đề chỉ được xem xét và
giải quyết với các năng lực tập thể[31]
và chính trị. Như thế, vẻ mặt quốc gia của chính quyền ở khía cạnh này dường
như đã bị một vài đặc tính liên bang làm biến dạng. Nhưng tỳ vết này có lẽ
không thể tránh khỏi trong bất kỳ thiết kế nào; và sự thực thi chính quyền trên
nền tảng nhân dân bằng các năng lực riêng của họ và qua các thủ tục thông
thường, chính yếu nhất, về tổng quát, có thể định danh chính quyền trong tương
quan này là một chính quyền QUỐC GIA.
Tuy thế, nếu chính quyền có tính quốc gia với góc
nhìn THỰC THI quyền lực, tính chất này sẽ lại thay đổi khi ta ngẫm nó trong
tương quan PHẠM VI của các quyền lực.
Ý tưởng về một chính quyền quốc
gia chính là nằm ở đây, không chỉ là quyền lực bao phủ lên các công dân cá nhân
mà còn là một uy quyền tối cao bất định trùm lên mọi cá nhân, sự vật cho tới
khi họ và chúng còn là những đối tượng của một chính quyền hợp luật. Trường hợp
một khối người hợp lại thành một quốc gia, uy quyền tối cao đó được giao hoàn
toàn cho cơ quan lập pháp quốc gia[32]. Nhưng, trường hợp các
cộng đồng hiệp lại với nhau cho những mục đích đặc biệt, uy quyền tối cao phân
cho hai nơi: một phần ở cơ quan lập pháp chung, phần kia ở các cơ quan lập pháp
bộ phận.
Trong trường hợp đầu, mọi thẩm quyền địa phương
đều lệ thuộc thẩm quyền tối cao; và có thể bị kiểm soát, điều hướng hoặc bãi bỏ
tùy theo ý muốn của thẩm quyền tối cao.
Trong trường hợp sau, các thẩm quyền địa phương
hoặc bộ phận là các thành phần độc lập, riêng biệt trong thẩm quyền tối cao,
không chỉ không còn lệ thuộc vào thẩm quyền chung trong các phạm vi riêng biệt
của chúng mà thẩm quyền chung lại lệ thuộc chúng nhiều hơn ngay trong lĩnh vực
riêng của thẩm quyền chung.
Như vậy, trong mối tương quan này, mô hình chính
quyền được đề xuất không thể được coi là một chính quyền QUỐC GIA; vì quyền
hành (jurisdiction) của nó chỉ có với một số đối tượng được xác định trước, và
nó để cho các tiểu Bang được có một quyền chủ tể đọng lại[33]
bất khả xâm phạm trên tất cả các đối tượng khác. Đương nhiên, trong trường hợp
có bất đồng về ranh giới giữa hai loại quyền hành này, tòa đưa ra phán quyết
tối hậu sẽ phải được lập dưới chính quyền chung.
Nhưng điều này không làm thay
đổi nguyên lý của vấn đề. Vì phán xét sẽ phải được thực hiện bất thiên vị, tuân
theo các qui định của Hiến pháp; và tất cả các biện pháp đề phòng thông thường
nhất, cẩn thận nhất sẽ được áp dụng để bảo vệ tính bất thiên vị này. Loại tòa án như thế
rõ ràng là điều cốt tử để tránh phải viện tới gươm đao và tan rã kết ước; và nó
cũng cần được thiết lập dưới chính quyền chung hơn là chính quyền địa phương
hoặc, nói một cách rõ hơn, rằng tòa án này sẽ an toàn khi được thiết lập chỉ
dưới thẩm quyền chung, một vị thế khó còn tranh cãi.
Nếu xét bản Hiến pháp, trong mối tương quan cuối
cùng, với thẩm quyền để tu chính bản thân nó, chúng ta sẽ thấy nó không hoàn
toàn là QUỐC GIA cũng không hoàn toàn là LIÊN
BANG. Nếu hoàn toàn là quốc
gia, thẩm quyền tối cao và tối hậu phải thuộc về ĐA SỐ nhân dân của Liên hiệp;
và thẩm quyền này sẽ phải luôn luôn có hiệu lực, như thẩm quyền của một đa số
trong mọi xã hội quốc gia, khi tu chính hay xóa bỏ một chính thể đã lập.
Mặt khác, nếu nó hoàn toàn là liên bang, phải có
tán thành đồng thời của mọi tiểu Bang trong Liên hiệp cho mọi thay đổi ràng
buộc tất cả. Cách thức do Hội nghị đề xuất không dựa trên nguyên tắc nào vừa
nêu. Bằng đòi hỏi nhiều hơn một đa số, và một số nguyên tắc. Bằng đòi hỏi nhiều
hơn một đa số, và đặc biệt bằng tính tỷ lệ theo TIỂU BANG, không phải theo CÔNG
DÂN, bản Hiến pháp đã rời tính chất QUỐC
GIA và tiến nhiều sang LIÊN BANG; bằng không đòi hỏi phải có tán thành của tất
cả các tiểu Bang, nó lại bớt đi đặc tính LIÊN BANG và lấy thêm tính chất
QUỐC GIA.
Vì vậy, bản Hiến pháp dự thảo, trong ý nghĩa chặt
chẽ, không phải là hiến pháp quốc gia, cũng không phải hiến pháp liên bang, mà
là tổng hợp của cả hai. Về nền tảng, nó là liên bang, không phải quốc gia; về
nguồn gốc sinh ra quyền lực cơ bản cho chính quyền, nó vừa là liên bang vừa là
quốc gia; trong sự thực thi các quyền lực này, nó lại là quốc gia, không phải
liên bang; về phạm vi của quyền lực, nó lại là liên bang, không phải quốc gia;
và cuối cùng, xét về thẩm quyền tu chính, bản Hiến pháp dự thảo không hoàn toàn
thuộc đặc tính liên bang, cũng không hoàn toàn thuộc đặc tính quốc gia.
Publius
*
Trong năm (5)
nguồn tham khảo (nêu trong Lời giới thiệu) chỉ có hai nguồn (www.constitution.org; bản dịch Pháp văn Le Fédéraliste của Anne Amiel, Paris
Classiques Garnier, 2012) ghi thời gian xuất bản bài này (như ghi ở đây), nhưng
chỉ có bản đầu ghi thứ của ngày trong tuần. Nguồn Anh ngữ căn bản để dịch:
-
Các ghi chú là của người dịch. Những ghi chú có chữ A.A. là dựa theo ghi chú trong bản dịch Pháp văn của Anne Amiel.
(còn 1 phần)
[1] Chính thể cộng hòa nằm ở phía đông bắc Italy
hiện nay, tồn tại gần 1000 năm từ cuối thế kỷ VII đến 1797, thường được giới
nghiên cứu chính trị quan tâm vì mặc dù lâm chiến liên miên nhưng là một chính
thể mạnh về kinh tế và thương mại và đặc biệt tồn tại rất lâu.
[2] Tức Viện thứ
dân, the House of Commons, của nghị viện Anh, được hình thành qua lá phiếu của
người dân.
[3] Tác giả có
ý nói đến Viện Quí tộc, House of Lords – thượng nghị viện – của Nghị viện Anh,
hình thành từ các chức sắc tôn giáo như các giám mục, chức sắc thế tục như giới
quý tộc hoặc những tước vị cao cấp và tất cả có tính cha truyền con nối hoặc
được tuyển chọn không qua lá phiếu của dân; còn “quân chủ trị” là nói đến vai
trò của vua (hoặc nữ hoàng) Anh nắm quyền hành pháp.
[4] “during
pleasure” - Nhiệm kỳ có hạn định là 2,
4 hoặc 5 năm, v.v. nhưng có thể bị truất quyền, phế bỏ chức vụ bất cứ lúc nào
khi người dân cảm thấy không hài lòng (pleasure). Thuật ngữ này đối ngược với nhiệm
kỳ phẩm hạnh “during good behavior”. Xem thêm phần Thuật ngữ.)
[5] “during good behavior”
- Nhiệm kỳ vô thời hạn (coi như suốt
đời đến khi về hưu hoặc tới lúc từ chức) chừng nào phẩm hạnh của người giữ chức
vụ này vẫn được coi là tốt đẹp dù người dân có thể không thấy hài lòng
(pleasure). Xem thêm phần Thuật ngữ.
[6] Nguyên văn
“great body of the society” (một bộ phận lớn của xã hội), tác giả nói theo
nghĩa hết sức chính xác, vì kể cả có 100% số phiếu ủng hộ thì điều đó cũng chưa
hẳn là 100% dân số vì thực tế không bao giờ có 100% người dân đi bỏ phiếu.
[7] Nhiệm kỳ bấp
bênh (during pleasure) hoặc nhiệm kỳ phẩm hạnh (during good
behavior).
[8] Tức nước Mỹ mới
thành lập.
[10] Lúc này đa phần
13 tiểu Bang đã tự xây dựng Hiến pháp riêng.
[11] “House of
Representatives” (thường được dịch là Hạ viện) là một trong hai viện của cơ
quan lập pháp (quốc hội) của Mỹ, viện kia là Thượng viện (senate).
[12] Ý này sẽ thành
Điều (Article) 1 Khoản (section) 3 của Hiến pháp Mỹ qui định các thượng nghị sỹ
liên bang sẽ do các cơ quan lập pháp tại tiểu bang bầu trực tiếp. Mãi đến năm
1913, tu chính án thứ 17 qui định lại, yêu cầu thượng nghị sỹ liên bang do nhân
dân các bang bầu trực tiếp.
[13] Nghĩa là người
dân không bầu trực tiếp ra các chức vụ này mà qua sự đề cử và phê duyệt của
những người do dân đã bầu ra. Ví dụ, Tổng thống đề cử thẩm phán liên bang hoặc
các chức vụ tổng trưởng với sự phê chuẩn của Thượng viện.
[14]Tức theo nhiệm
kỳ bấp bênh hoặc nhiệm kỳ phẩm hạnh
[15] Ý này đã được
hiện thực hóa thành Điều 1 Khoản 2 Hiến pháp Mỹ qui định cứ 2 năm Hạ nghị viện
Mỹ phải bầu lại.
[16] Ý này đã được
hiện thực hóa thành Điều 1 Khoản 3 Hiến pháp Mỹ qui định cứ 2 năm có 1/3 Thượng
nghị sỹ phải bầu lại.
[17] “impeachment”,
xem thêm phần Thuật ngữ.
[18] Xem thêm phần Thuật
ngữ.
[19] Xem thêm phần Thuật
ngữ.
[20] Đây là một ý
của nhóm anti-federalist phản đối Hiến pháp, phản đối sự hợp nhất 13 tiểu Bang
thành một thực thể dưới một chính quyền chung, vì họ sợ chính quyền liên
bang (dự kiến) có bản chất giống như chính quyền của một tiểu Bang ở nghĩa thu
vén và kiểm soát tất cả mọi vấn đề của các tiểu Bang, nghĩa là làm cho các tiểu
Bang mất quyền chủ tể (sovereignty). Chính vì vậy, ở phần trình bày tiếp theo
và trong các FP khác, vấn đề phân biệt giữa chính quyền liên bang và tiểu bang
sẽ được làm rõ. Ở đây chúng ta nên chú ý một số thuật ngữ có những sắc thái
khác nhau khá tinh tế: Trước hội nghị lập hiến tại Philadelphia, hình thức gắn
kết của 13 bang (thuộc địa cũ) được gọi là Confederation. Nhưng khi thảo ra bản
hiến pháp mới, các nhà lập hiến đã tạo ra một dạng thức chính quyền mới trên cơ
sở tương tự như Confederation nhưng có nhiều cải tiến dường như chưa từng có
trong lịch sử và bản thân họ, hình như, cũng chưa tự tin hoàn toàn trong việc
đặt tên cho hình thức mới này nên những thuật ngữ như federation,
confederation, confederacy vẫn thỉnh thoảng được dùng lẫn cho nhau mà ngày nay
chúng ta có thể hiểu là cùng một nghĩa: liên
bang. Chính vì thế, để làm bớt sự băn khoăn, và tránh ngộ nhận, và làm rõ
hơn về dạng thức chính quyền mới, trong FP 9 Alexander Hamilton đã giải thích
kỹ sự khác biệt quan trọng giữa dạng thức LIÊN BANG (confederacy, federation)
với dạng thức HỢP NHẤT (consolidation).
[21] Một trong những
luận cứ của những người phản đối dự thảo Hiến pháp là Hội nghị Phidelphia không
được phép đưa ra một hiến pháp hoàn toàn mới như đang thấy vì lý do triệu tập
Hội nghị chỉ là nhằm sửa đổi thỏa ước the Articles of Confederation.
[22] Tác giả có ý
làm rõ và nhấn mạnh bản hiến pháp vẫn tôn trọng chủ quyền riêng biệt và những
tự do riêng biệt của từng bang khi trở thành thành viên của liên bang như hiến
pháp dự liệu.
[23] Vì lúc này các
tiểu bang rất e ngại khi hình thành liên hiệp các quyền tự do của họ sẽ bị mất
hoặc thuyên giảm, do đó các nhà lập hiến Mỹ đã tránh các từ ngữ có thể làm trầm
trọng thêm quan ngại đó. Vì vậy trong Hiến pháp Mỹ không hề có từ “dân tộc”,
“quốc gia” (nation, national) mà chỉ có từ “nhân dân” (we the people) và chính
quyền liên bang (federal government). Đoạn này cũng cho thấy e ngại đó. Nhưng
chúng ta sẽ thấy các tác giả FP sau này sẽ mạnh dạn một cách dè dặt dùng các từ
như “chung” (general) “quốc gia” (national) để chỉ Liên hiệp mới. Xem thêm ghi
chú số 1 trong FP 3.
[24] Xem lại ghi chú
ở trên.
[25] Thực tế, những
người dự thảo Hiến pháp đã ấn định Hiến pháp sẽ được thông qua nếu có 9/13 tiểu
Bang phê chuẩn. Tại sao những người soạn Hiến pháp lại quyết định như thế,
chúng ta sẽ thấy một giải thích trong FP 40.
[26] Để dễ hiểu hơn
ta có thể coi như thế này: Hợp Chúng Quốc đó có 13 Bang với tổng số dân là 2
000 người (coi như đều đủ tư cách bỏ phiếu). Vậy xét đa số “qua việc so sánh
các lá phiếu cá nhân” là xét trên tổng số 2 000 lá phiếu đó, sẽ có bao nhiêu
người đồng ý/không đồng ý. Và xét ý chí đa số của các tiểu Bang là xét xem
trong 13 bang đó có bao nhiêu bang đồng ý/không đồng ý. Hai cách xem xét này có
thể không trùng nhau về kết quả dựa trên tổng số dân, vì có thể số các bang
“đồng ý” không đạt được quá bán của 13 bang, nhưng tổng số dân trong các bang
“đồng ý” này lại chiếm đa số dân trong tổng số 2 000 người dân (của toàn 13
bang). Bởi tổng số dân ở các bang “không đồng ý” ít hơn tổng số dân có trong
các bang “đồng ý”.
[27] Số đại diện
trong Hạ viện của các tiểu Bang được ấn định dựa trên tỷ lệ dân số. Hiến pháp
Mỹ Điều 1 Khoản 2 qui định cứ 30.000 dân có 01 đại diện trong Cơ quan Đại diện
(Hạ viện), nhưng ít nhất một bang phải có 01 đại diện.
[28] Nghĩa là dù
bang ít dân hay nhiều dân thì số thượng nghị sỹ mỗi bang đều giống nhau, không
theo tỷ lệ dân số như Hạ viện. Hiến pháp Mỹ Điều 1 Khoản 3 qui định mỗi tiểu
bang có 2 thượng nghị sỹ.
[29] Chính là Cơ
quan Đại diện (Hạ viện).
[30] Hiến pháp Mỹ
Điều 2 Khoản 1 qui định cách thức bầu Tổng thống, tóm tắt: Mỗi tiểu Bang sẽ đề
cử, theo thể thức do cơ quan lập pháp của Tiểu bang đó qui định, một số cử tri
(elector) bằng tổng số Thượng nghị sỹ và Hạ nghị sỹ mà tiểu Bang đó có tại Quốc
hội Liên bang để bầu tổng thống và phó tổng thống. Tiến trình đó gọi là
Electoral College, các cử tri đó thường được người Việt gọi là đại cử tri. Tổng số đại cử tri hiện nay là
538 (435 + 100 + 3; 3 là số đại cử tri được dành riêng cho District of Columbia
theo Tu chính Án số 23 được các tiểu Bang phê chuẩn ngày 29/3/1961). Các đại cử
tri sẽ tập hợp lại tại từng tiểu Bang của họ để bỏ phiếu cho hai ứng cử viên
Tổng thống – trong đó ít nhất có một người không cư trú tại tiểu Bang của họ.
Nếu ứng cử viên nào được đa số phiếu cử tri đoàn (tối thiểu 270) thì đắc cử Tổng
thống. Nếu có hai ứng cử viên có số phiếu cử tri đoàn chiếm đa số bằng nhau thì
Hạ viện sẽ bỏ phiếu chọn Tổng thống trong hai người này. Nếu không có ai được
đa số phiếu cử tri đoàn, Hạ viện sẽ bỏ phiếu cho năm người có số phiếu cao nhất
theo cách: mỗi tiểu Bang được một phiếu với điều kiện phải có đại diện của ít
nhất 2/3 tổng số các tiểu Bang. Sau khi chọn được Tổng thống, người có số phiếu
nhiều nhất sẽ là Phó Tổng thống. Nếu có hai hoặc nhiều người cùng có số phiếu
như nhau thì Thượng viện sẽ bỏ phiếu chọn Phó Tổng thống.
[31] Tức với mục
tiêu vì toàn liên bang.
[32] Ý tưởng “cơ quan lập pháp quốc gia nắm uy quyền tối
cao” là một ý tưởng thịnh hành lúc đó. Nhưng, các diễn tiến về học thuật chính
trị sau này không còn coi như thế, mà “uy quyền tối cao” được san sẻ, ước chế
và cân bằng giữa lập pháp-hành pháp-tư pháp.
[33] “A residuary
sovereignty” - đây là thuật ngữ do tác giả sáng tạo, sẽ được nhắc lại trong FP
62. A.A.