Bất chấp Mỹ đã rút khỏi TPP và Tổng thống Mỹ đang là tâm
điểm chỉ trích, giễu nhại của truyền thông thế giới, lãnh đạo
Nhật vẫn không ngừng gia tăng gắn bó với Mỹ. Trong vòng sáu tháng qua,
Thủ tướng Shinzo Abe đã tới Mỹ bốn lần và gặp Donald J. Trump hai lần.
Nhật thường có những hành động “lạ lùng” so với những dân tộc đồng
văn, đồng chủng da vàng. Năm 1854, Hiệp ước thân thiện Nhật-Mỹ được
ký kết. Nhật Bản là nơi duy nhất các nhà thực dân phương Tây của thế
kỷ XIX không đòi hỏi nhà chức trách bản xứ phải áp dụng nguyên tắc
pháp luật kép – vì chính quyền Nhật đã du nhập và thực thi nghiêm “thượng
tôn pháp luật” (the rule of law) cho mọi đối tượng. Năm 1946, Nhật phê chuẩn và thực thi nghiêm cẩn bản hiến pháp do người Mỹ – cựu thù của
Nhật - soạn thảo.
Trong cộng đồng trí thức Việt hiện vẫn có một luồng dư
luận cho rằng nếu lãnh đạo Mỹ vào năm 1946 biết phản hồi và đáp
ứng những khẩn cầu của Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh đã không đi theo Stalin,
Mao Trạch Đông và đã không quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”.
Nước Việt và nước Nhật vẫn là hai nước rất khác nhau, có lẽ vì
người Nhật đã sớm nhận ra chân lý: Không thể chạy theo sự bất lương
khi không được sự văn minh để ý và coi trọng.
FEDERALIST 51
Phạm Hồng Sơn dịch
Cấu trúc chính quyền phải tạo được cơ chế “kìm
soát và đối trọng” thực sự giữa các bộ phận
Từ
the New York Packet
Thứ
Sáu, 8 tháng Hai 1788
Alexander
Hamilton hoặc
James Madison*
Kính gửi Nhân Dân tiểu Bang New York:
Rốt cuộc chúng ta sẽ trông cậy vào công cụ nào để
trên thực tế duy trì được sự chia tách quyền lực cần thiết giữa các bộ phận như
đã chỉ định trong Hiến pháp?
Vì tất cả các biện pháp phòng tránh từ bên ngoài
đã thấy sẽ không đủ hiệu lực, câu trả lời duy nhất chỉ có thể là phải bằng cách
tạo ra một cấu trúc nội tại của chính quyền sao cho các bộ phận cấu thành,
thông qua sự tương tác giữa chúng với nhau, trở thành các phương tiện giữ cho
mỗi bộ phận ở nguyên trong các vị trí riêng của chúng. Tôi không dám đi sâu vào
toàn bộ quá trình hình thành ý tưởng quan trọng này, nhưng sẽ cố trình bày một
số nhận định khái quát có thể làm cho ý tưởng dễ hiểu hơn và giúp chúng ta có
nhận thức đúng hơn về các nguyên lý và cấu trúc của chính quyền do Hội nghị
thiết kế.
|
Alexander Hamilton (c.1755-1804) |
Để đặt được nền móng đúng đắn cho sự thực thi các
quyền lực một cách khác nhau và tách biệt - điều mà tất cả mọi người trong một
chừng mực nào đó cùng thừa nhận là điều cốt tử để bảo tồn tự do - thì điều hiển
nhiên là mỗi bộ phận phải có một ý chí riêng biệt; và, vì thế, phải được cấu
tạo sao cho các thành viên trong mỗi bộ phận có khả năng tác động ít nhất có
thể vào sự hình thành thành viên của các bộ phận khác. Nếu nguyên tắc này
được tuân thủ nghiêm ngặt, mọi sự bổ nhiệm cho các vị trí cao nhất của hành
pháp, lập pháp và tư pháp buộc phải bắt nguồn từ cùng một nguồn thẩm quyền, đó
là nhân dân, thông qua các kênh không có bất cứ trao đổi gì với nhau. Có lẽ
một dự án xây dựng các bộ phận như thế khi được triển khai vào thực tế sẽ
bớt khó khăn hơn so với lúc còn nằm trên bản vẽ. Tuy nhiên, sẽ phải có
thêm một số khó khăn và một số chi phí thêm trong khi thực hiện. Do đó,
chúng ta sẽ phải chấp nhận một số sai lệch nào đó so với nguyên tắc ban đầu[1].
Đặc biệt, khi xây dựng bộ phận
tư pháp, sẽ không khôn ngoan nếu cứ nhất nhất giữ cho bằng được nguyên tắc,
vì: thứ nhất, điều cốt yếu của tư pháp
nằm ở những phẩm chất đặc biệt của các thành viên, nên quan tâm hàng đầu
phải là cách thức chọn lựa sao cho đảm bảo các thành viên tư pháp có được những
phẩm chất đặc biệt đó; thứ hai, vì nhiệm kỳ vô hạn định[2]
của các chức vụ trong bộ phận này chắc chắn sẽ sớm loại bỏ đi tất cả mọi lệ
thuộc vào thẩm quyền đã bổ nhiệm họ[3].
Một điều hiển nhiên nữa là lương bổng liên quan
tới chức vụ của các thành viên trong mỗi bộ phận càng ít phụ thuộc vào thành
viên của các bộ phận khác thì càng tốt. Ví dụ, nếu lương bổng của tổng thống
hoặc của thẩm phán lại không có sự độc lập khỏi lập pháp thì sự độc lập của họ
trong mọi vấn đề khác chỉ còn danh nghĩa mà thôi.
Nhưng biện pháp an ninh tốt nhất để chống lại sự
tập trung dần dần tất cả các quyền lực khác nhau vào cùng một bộ phận là phải
cho những người điều hành mỗi bộ phận có hai thứ: một, các công cụ hiến pháp
cần thiết; hai, những động lực cá nhân để chống lại các xâm lấn của các bộ phận
khác. Phương tiện tự vệ trong lĩnh vực này, cũng như ở mọi lĩnh vực khác, phải
được chế tạo sao cho có uy lực tương xứng với nguy cơ bị tấn công. Tham vọng
phải tạo ra để đối lại tham vọng[4]. Lợi ích, ham muốn
của kẻ lãnh đạo phải bị gắn với các quyền hiến định đã lập. Những kỹ thuật
như thế là cần thiết để kiềm chế các quá trớn của chính quyền, có lẽ, là
bởi chúng đã được rút ra từ một suy ngẫm nào đó về bản thể con người.
Nhưng bản thân chính quyền là gì nếu không phải là suy tư vĩ đại nhất về bản
thể người? Nếu con người là thiên thần, chính quyền sẽ thừa. Nếu thiên thần
quản trị con người, các phương tiện kiểm soát chính quyền, cả trong lẫn ngoài,
đều không cần[5]. Nhưng khi phải
thiết kế một chính quyền để con người quản trị con người thì nan giải lớn nhất
nằm ở đây: đầu tiên phải tạo điều kiện để chính quyền kiểm soát được người bị
trị; tiếp theo là phải buộc được chính quyền tự kiểm soát chính nó. Và, chắc
chắn, kiểm soát cơ bản đối với chính quyền là bắt nó phải lệ thuộc vào nhân
dân; nhưng kinh nghiệm đã dạy nhân loại rằng phải cần thêm một biện pháp phụ
trợ nữa.
Biện pháp này, có thể thấy trong
các hệ thống của con người, ở cả việc công lẫn việc tư, là bù đắp cho sự thiếu
hụt động lực tử tế bằng các quyền lợi, ham muốn đối ngược và kình địch. Chúng
ta thấy điều này đã được thể hiện rõ trong mọi sự phân bổ quyền lực
lệ thuộc có một mục đích không đổi là nhằm phân chia, sắp xếp các chức vụ
sao cho mỗi chức vụ là một sự kìm soát của chức vụ khác khiến cho quyền
lợi riêng của từng cá nhân trở thành một kẻ canh chừng cho các quyền lợi
chung. Những sáng tạo khôn ngoan như thế không thể nào lại không rất cần
cho việc phân bổ các quyền lực tối cao của Nhà nước.
Nhưng chúng ta không thể tạo cho mỗi bộ phận một
sức mạnh bằng nhau để tự vệ. Trong chính thể cộng hòa, thẩm quyền lập pháp vượt
hẳn các thẩm quyền khác là điều không tránh được. Cách chữa trị sự bất tiện này
là phải chia lập pháp thành nhiều nhánh khác nhau; và dùng cách bầu chọn khác
nhau cùng các nguyên tắc hoạt động khác nhau khiến cho sự liên hệ giữa chúng
được giảm thiểu tối đa miễn là các chức năng chung và sự lệ thuộc chung của
chúng đối với xã hội không bị ảnh hưởng[6]. Thậm chí có
thể còn phải cần thêm những biện pháp khác để chống lại các xâm lấn
nguy hiểm.
Trong khi trọng lượng đặc biệt[7] của lập pháp
khiến nó cần phải bị phân chia ra, thì sự yếu ớt của hành pháp lại đòi hỏi
nhánh này phải được tăng thêm quyền lực. Mới nhìn
qua, quyền phủ quyết tuyệt đối[8]
trên lập pháp là một phòng vệ tự nhiên cần trang bị cho lãnh đạo hành pháp.
Nhưng có lẽ biện pháp này vừa chưa an toàn vừa chưa đủ mạnh. Bình thường, nó có
thể không được áp dụng một cách đủ cương quyết, nhưng lại dễ bị lạm dụng một cách
nguy hiểm trong những hoàn cảnh đặc biệt. Phải
chăng khiếm khuyết này của phủ quyết tuyệt đối không thể bù đắp bằng một liên
kết phù hợp nào đó giữa bộ phận yếu ớt này[9]
và nhánh yếu hơn trong bộ phận lớn nhất[10],
qua đó nhánh nói sau sẽ hỗ trợ các quyền hiến định của bộ phận nói trước nhưng
không quá tách rời khỏi các quyền của bản thân?[11]
Nếu các nguyên lý nền tảng của các nhận định trên
là đúng đắn như tôi nghĩ và nếu chúng được trở thành tiêu chuẩn cho các bản
hiến pháp tiểu Bang và cho cả bản Hiến pháp liên bang, chúng ta sẽ thấy là nếu
bản sau không đáp ứng hoàn toàn với các nguyên lý đó thì các bản trước lại càng
vô cùng thiếu khả năng hơn.
Ngoài ra, có hai cách nhìn đặc
biệt cho thấy hệ thống liên bang Mỹ là một hệ thống cực kỳ thú vị.
Thứ nhất, trong một nước cộng hòa riêng biệt thì
tất cả mọi quyền lực mà nhân dân đã nhượng bỏ[12] sẽ được giao
cho một chính quyền duy nhất quản lý; và các thoán đoạt quyền lực được phòng
chống bằng cách chia tách chính quyền thành nhiều bộ phận riêng biệt, khác
nhau. Trong nước cộng hòa phức hợp của Mỹ, quyền lực do người dân nhượng bỏ
trước tiên được phân cho hai chính quyền khác nhau, rồi sau mới chia cho các bộ
phận phụ thuộc nằm trong các bộ phận khác nhau, riêng biệt. Thành ra có một an
ninh kép cho các quyền của người dân. Hai chính quyền sẽ kiểm soát lẫn nhau,
đồng thời mỗi chính quyền sẽ bị kiểm soát bởi chính nó.
Thứ hai, điều tối quan trọng trong một nước cộng
hòa không chỉ là việc bảo vệ xã hội chống lại trấn áp của những kẻ cầm quyền mà
còn phải bảo vệ từng nhóm xã hội khỏi sự xâm hại của các nhóm xã hội khác. Các
tầng lớp công dân khác nhau tất yếu sẽ có những ham muốn và lợi ích khác nhau.
Nếu một lợi quyền chung nào đó tạo ra một đa số, khi đó các quyền của nhóm
thiểu số sẽ không an toàn[13].
Có hai cách chống lại ác họa này: một, tạo ra một
ý chí trong cộng đồng độc lập với đa số, nghĩa là độc lập với chính xã hội;
cách kia, làm cho xã hội hình thành nhiều nhóm công dân thật riêng biệt tới
mức khiến cho các kết hợp bất chính muốn thành đa số rất khó thực thi, nếu như
không phải bất khả thi. Cách thứ nhất nằm ngay trong tất cả các chính quyền có
quyền lực thế tập hoặc quyền lực tự trao. Nhưng cách này, khi tốt nhất, chỉ là
một an ninh bấp bênh; vì một quyền lực độc lập với xã hội có thể câu kết với
cả quan điểm bất chính của nhóm đa số và cả các quyền lợi đúng đắn của
nhóm thiểu số rồi có thể quay ra chống lại cả hai. Cách thứ hai sẽ được thể
hiện trong nước cộng hòa liên bang Hợp chúng Quốc[14]. Trong khi mọi
uy quyền của nước cộng hòa này được tạo dựng từ và lệ thuộc vào xã hội, bản
thân xã hội lại được phân chia thành rất nhiều nhóm, quyền lợi và các tầng lớp
khác nhau khiến cho các quyền cá nhân, các quyền của thiểu số khó bị đe dọa bởi
các manh tâm của đa số. Trong một chính thể tự do, an ninh cho các quyền dân
sự phải giống như an ninh cho các quyền tôn giáo. An ninh cho các quyền trước
nằm trong tính đa dạng của quyền lợi, còn trường hợp sau từ sự đa dạng của giáo
phái. Mức độ an ninh của cả hai phụ thuộc vào số các quyền lợi và giáo phái,
những điều được cho là phụ thuộc vào qui mô rộng lớn của đất nước và số lượng
dân chúng sống trong cùng một chính quyền.
Cách nhìn này chắc chắn đã
giúp
những người bạn chân thành và cẩn trọng của chính thể cộng hòa nhận thấy một
hệ thống liên bang đúng đắn vì nó chỉ ra một cách chính xác rằng khi lãnh thổ của Liên hiệp được chia thành nhiều Bang liên
nhỏ hơn hoặc thành nhiều Nhà nước, các ý đồ trấn áp của một đa số sẽ dễ
dàng thực hiện: sự đảm bảo tốt nhất, với tính chất cộng hòa, cho quyền
của mọi tầng lớp công dân sẽ bị suy yếu; và hệ quả
là sự ổn định, độc lập của một viên chức nào đó trong chính quyền – bảo
đảm duy nhất còn lại – chắc chắn sẽ
được gia tăng một cách tương ứng[15]. Công lý là cứu
cánh của chính quyền. Đó cũng là mục tiêu tối hậu của xã hội công dân. Mục
tiêu này vẫn đang và sẽ mãi được đeo đuổi cho tới khi thành tựu, hoặc cho
tới khi tự do bị kiệt quệ hoàn toàn trên đường tìm kiếm.
Trong các xã hội để cho bè
phái mạnh dễ dàng hợp lực triệt hạ bè phái yếu, sự rối loạn vô chính phủ
sẽ ngự trị giống như trong tự nhiên ‘cá lớn nuốt cá bé’[16];
và, ngay những kẻ
mạnh sống trong tình trạng sau, vì bất trắc, cũng sẽ phải viện tới bất
kỳ chính quyền nào có khả năng bảo vệ kẻ yếu và bảo vệ chính họ; tương tự,
trong các xã hội vừa kể, những bè phái hay bè đảng mạnh nhất, với động
cơ tương tự, cũng sẽ dần dần phải ước muốn có một chính quyền sẽ bảo vệ
được tất cả mọi phe phái, yếu cũng như mạnh.
Chẳng còn mấy nghi ngờ rằng nếu tiểu Bang Rhode
Island[17] bị tách khỏi
Bang liên và bị bỏ mặc một mình, sự mất an ninh của các quyền dưới chính thể
bình dân[18] trong một qui mô nhỏ hẹp như thế sẽ bị phơi
bày bởi những trấn áp của các bè phái chiếm đa số tái diễn tới mức
chính các bè phái đã cai trị bất công sẽ đòi hỏi phải sớm có một quyền lực
nào đó độc lập hoàn toàn với nhân dân mà sự cai trị bất công của họ đã
chứng tỏ cần phải có quyền lực này. Nhưng trong nước cộng hòa rộng lớn
của Hợp chúng quốc và trong sự đa dạng mênh mông của các quyền lợi, bè đảng và
giáo phái khác nhau mà nước cộng hòa này bảo bọc, một liên minh đa số của
toàn xã hội rất khó có thể hình thành với những nguyên tắc khác với các nguyên
tắc dựa trên sự công bình và phúc lợi chung; thành ra các nhóm thiểu
số vừa ít bị đe dọa hơn bởi ý chí của nhóm đa số, vừa ít có lý cớ an
ninh để buộc chính quyền phải thực thi những ý muốn bất lệ thuộc vào đa
số, hay, nói cách khác, những ý muốn không bị ràng buộc vào chính xã
hội.
Dầu những ý kiến trái ngược vẫn tồn tại,
điều chắc chắn và quan trọng là xã hội càng mở rộng trong một không gian hợp
lý, xã hội càng có nhiều khả năng hơn trong sự tự quản. Thật đáng mừng
cho SỰ NGHIỆP CỘNG HÒA, không gian hợp lý đó lại có giới hạn vô cùng lớn nhờ
sự điều chỉnh và phối hợp sáng suốt của NGUYÊN LÝ LIÊN BANG.
Publius
*
Trong năm (5)
nguồn người dịch tham khảo (nêu trong Lời giới thiệu) có ba nguồn (www.constitution.org; oll.libertyfund.org ; và
bản dịch Pháp văn Le Fédéraliste
của Anne Amiel, Paris Classiques Garnier, 2012) ghi tác giả bài này là James
Madison. Hai nguồn còn lại đều giữ lại sự nghi hoặc giữa Hamilton và Madison.
Nguồn Anh ngữ căn bản để dịch:
www.foundingfathers.info/federalistpapers/
-
Các ghi chú là của người dịch. Ghi chú có chữ A.A. dựa theo ghi chú
bản dịch Pháp văn của Anne Amiel.
Thuật ngữ (trích) :
Bang-liên
(confederacy, confederation; confederate), Liên-bang (federation;
federal): những thuật ngữ này (trong bối cảnh của the Federalist Papers) chỉ
khác nhau ở phương diện lịch sử. Vào thời điểm trước và sau Cách mạng Mỹ 1776,
mô hình quốc gia tạo lập từ 13 thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ là một mô hình gần như
hoàn toàn mới chưa có trong lịch sử. Do đó các nhà lập quốc Mỹ cũng chưa có sự
thống nhất rõ ràng về thuật ngữ, lúc thì gọi là confederacy, confederation hoặc
federation, nhưng qua tranh luận đã dần dần hình thành nên ý niệm chung đó là
mô hình khác với mô hình sự hợp nhất các quốc gia với nhau đã có trong
lịch sử. Điểm khác biệt cơ bản của mô hình Liên-bang (federation)
(cũng tức là bang-liên) so với Hợp-nhất (consolidation;
consolidated): có một sự xác định rõ ràng trong giới hạn quyền lực của chính
quyền trung ương liên-bang - không được can thiệp vào một số lĩnh vực quan
trọng của các quốc gia tiểu bang. (xem FP 9, FP 39). (hai thuật ngữ bang-liên,
liên-bang, theo Vũ Văn Mẫu, sđd)
Ngày nay các thuật ngữ này đã có sự phân biệt rõ
ràng hơn: confederation: là một thiết chế tổ chức gồm các thành viên
đồng ý nhượng một số quyền lực cho một cơ quan quản lý, điều hành một số lợi
ích chung trong khi các thành viên vẫn giữ nguyên vẹn tính độc lập của chúng,
ví dụ: NATO, Liên hợp quốc, khối các
nước Ả-rập Thống nhất (the United Arab Emirates); federation: là một quốc gia độc lập
gồm nhiều đơn vị lãnh thổ có chính quyền riêng biệt ở cấp bang, tỉnh hoặc vùng
- các chính quyền này được đảm bảo một qui chế được ghi rõ trong hiến pháp của
quốc gia về mức độ độc lập và tự trị so với chính quyền trung ương, ví dụ:
Australia, Ấn Độ, Áo, Canada, Đức, Thụy Sỹ, Mỹ,... (theo Kenneth Newton và Jan
W. Vandeth, Foundations of Comparative Politics - Democracies of the modern
world, Cambridge, second edition, 2010)
Chính
thể (chính quyền) bình dân (popular government): Chính thể (chính quyền) nhằm phân biệt tương phản với chính thể
quân chủ. Trong chính quyền bình dân, quyền lực công không có tính chất
thừa kế và không tập trung vào tay một cá nhân (hay nhóm), nghĩa là các chức
vụ quản lý công của quốc gia, xã hội được hình thành thông qua sự lựa chọn
(hoặc phế truất) bởi dân chúng một cách định kỳ. Tuy nhiên, tư cách cử tri và
tư cách ứng cử viên trong chính thể bình dân, tại thời điểm của Federalist Papers ra đời, chưa được
mở rộng phổ thông tới toàn dân như ngày nay, nhưng quá trình bầu cử và ứng cử
là hoàn toàn công khai và minh bạch (khác hoàn toàn với các chính thể dân chủ
giả hiệu hiện nay như ở Trung Cộng, Việt Nam,...)
Đàn hặc (impeachment): Là một thủ tục pháp lý đặc biệt, có
nguồn gốc từ thế kỷ XIV tại Anh, nhằm cáo buộc một viên chức cao cấp (thường là
người đứng đầu hành pháp) đã có hành động được coi là không đúng đắn hoặc/bất
hợp pháp gây tổn hại tới quyền lợi chung của đất nước. Kết cục của đàn hặc thường dẫn tới bãi chức hoặc có
thể kèm theo cả hình phạt về dân sự hoặc hình sự tùy từng nơi, nhưng thường là
nhằm mục đích tố giác sự thiếu trung thực, thiếu trách nhiệm của một viên chức
cao cấp. Thẩm quyền lập đàn hặc và xét xử đàn hặc thường thuộc hai thiết chế khác nhau và phải là một
trong các nhánh quyền lực cơ bản của chính quyền, ví dụ Hạ viện Mỹ có quyền
công tố quyết định đàn hặc đối với Tổng thống, các thẩm phán của
Pháp viện Tối cao, nhưng vai trò thẩm phán xét xử đàn hặc thuộc thẩm quyền của Thượng
viện. (xem FP 39, FP 47)
Hợp
nhất (consolidation): Xem mục “Bang liên”
Kìm
soát và Đối trọng ('checks and balances'): Thuật
ngữ này xuất phát từ ý niệm của Montesquieu (1689-1755) trong tác phẩm De
l'esprit des lois (1748), trong đó Montesquieu nhận định rằng quyền lực có
tính xâm lấn, hung dữ và để kiềm chế ác tính này thì cần phải tạo ra một cơ chế
hữu hiệu, cơ chế đó là tạo ra quyền lực khác đối trọng với nó. Sau này, các nhà
lập quốc Mỹ đã phát triển ý niệm này rõ hơn và đi đến hình thành thuật ngữ
'checks and balances' (hoặc nói ngược lại 'balances and checks') nghĩa là các
nhánh quyền lực chính trong một chính quyền, lập pháp, hành pháp, tư pháp, phải
tách rời nhau sao cho chính chúng trở thành phương tiện kiểm soát, kìm hãm và
đối trọng lẫn nhau để giảm thiểu cao nhất sự tích tụ quyền lực quá nhiều
vào một cá nhân (cơ quan) dẫn tới tình trạng độc tài, độc đoán gây
bất lợi cho tự do và lợi ích công của toàn xã hội. (xem FP 9, FP 48, FP 51)
Nhiệm
kỳ bấp bênh (during
pleasure): Nhiệm kỳ đã có hạn định là 2, 4 hoặc 5 năm, v.v. nhưng có thể bị
truất quyền, phế bỏ chức vụ bất cứ lúc nào khi người dân cảm thấy không hài
lòng (pleasure). Thuật ngữ này đối ngược với nhiệm kỳ phẩm hạnh “during
good behavior”.
Nhiệm
kỳ phẩm hạnh (during good behavior): Nhiệm
kỳ vô thời hạn (coi như suốt đời đến khi về hưu hoặc tới lúc từ chức) chừng nào
phẩm hạnh của người giữ chức vụ này vẫn được coi là tốt đẹp dù người dân có thể
không thấy hài lòng (pleasure). Loại nhiệm kỳ này thường chỉ áp dụng cho các
thẩm phán cấp cao (thẩm phán liên bang, thẩm phán tòa tối cao).
* Cập nhật ngày 18 tháng Năm 2017: chữ "đàn hạch" (impeachment) đã được sửa thành "đàn hặc"
[1] Ở đây ý tác
giả nhắc lại lập luận đã nói trong FP
47, 48 rằng “tam quyền phân lập” không có nghĩa là tách biệt, khác nhau một
cách tuyệt đối giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp.
[2] Xem thêm phần Thuật ngữ, “Nhiệm kỳ phẩm hạnh”.
[3] Vì theo nguyên tắc chung
của “cộng hòa”, khác với “quân chủ”, các chức vụ công quyền phải có hai đặc
tính: do nhân dân lập ra và có thời hạn nhất định. Nhưng ở đây, như ta thấy
nguyên tắc (chung) này không được tuân thủ nghiêm ngặt ở khía cạnh “nhiệm kỳ có
thời hạn”.
[4] Ở đây chúng ta cần xem lại một đoạn trong De l'esprit des lois của
Montesquieu xuất bản năm 1748 ở Chương XI, 4 “...mais c'est une expérience
éternelle que tout homme qui a du pouvoir est porté à en abuser; il va jusqu'à
ce qu'il trouve des limites. Qui le dirait! la vertu même a besoin des limites.
Pour qu'on ne puisse abuser du pouvoir, il faut que, par la disposition des
choses, le pouvoir arrête le pouvoir” - “...đó thuộc về một kinh nghiệm muôn
thuở rằng mọi kẻ có quyền lực đều sẽ lạm dụng quyền lực hết mức cho tới tận khi
thấy bị giới hạn. Đó là qui luật! Vì đạo đức cũng phải cần có giới hạn cơ mà.
Để người ta không thể lạm dụng được quyền lực, cần phải tạo ra quyền lực để
ngăn chặn quyền lực, như bản chất thường tình của sự vật.” John Adams
(1735-1826), một nhà lập quốc Hoa Kỳ và là Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ cũng
có phát biểu tương tự vào năm 1778 khi bàn về chính quyền: “Orders of men,
watching and balancing each other, are the only security; power must be opposed
to power, and interest to interest.” - “Các nhóm người khác nhau, cảnh giới và
đối trọng lẫn nhau, là biện pháp an ninh duy nhất; quyền lực phải chống lại
quyền lực, và quyền lợi chống lại quyền lợi.”
A.A.
[5] Ý này giống ý của Jean Jacques Rousseau viết trong Du Contrat social, Tập III,
Phần 4 “S’il y avait un peuple de Dieux, il se gouvernerait Démocratiquement.
Un gouvernement si parfait ne convient pas à des hommes” - “Nếu có một dân tộc
Thần thánh, họ sẽ tự quản trị một cách Dân chủ. Một chính quyền hoàn hảo như
thế không phù hợp với loài người.” A.A.
[6] Nghĩa là làm giảm sự câu kết giữa các bộ phận lập pháp tối đa
nhưng vẫn phải duy trì được các chức năng chính của chúng và chúng
vẫn phải là kết quả từ ý nguyện của dân chúng. Đó là lý luận cho mô hình
lập pháp gồm 2 viện (bicameral), nhưng các diễn tiến chính trị sau này của nhân
loại cho thấy không nhất thiết phải tách nhánh lập pháp ra làm hai mà vẫn đảm
bảo nhánh lập pháp không lộng quyền.
[7] Tác giả ngụ ý về số lượng các thành viên của cơ quan lập pháp thường
lớn hơn nhiều so với hành pháp, tư pháp.
[8] “phủ quyết tuyệt đối” (absolute
negative) là quyền bác bỏ không thể lật lại - là đề xuất của chính Madison
trong Hội nghị Philadelphia nhưng đã bị bác bỏ. Sau này quyền phủ quyết của hành
pháp (tổng thống) là quyền tương đối vì quốc hội có thể vượt qua bằng một lần
biểu quyết mới với sự đồng thuận của ít nhất 2/3 thành viên của cả hai viện. A.A.
[11] Để dễ
hình dung hơn trong đoạn lý luận này, chúng ta có thể cụ thể hóa như thế này:
tác giả đang giả thiết sẽ tạo lập một quan hệ tương tác giữa hành pháp và
thượng viện (nhánh yếu hơn của lập pháp) để khi cần thượng viện sẽ cho tiếng
nói ủng hộ quyết định đối với hành pháp nhưng sự ủng hộ đó của thượng viện lại
không đi quá xa các quyền lập pháp. Ý tưởng này đã được hiện thực hóa trong
Hiến pháp Mỹ, ví dụ Điều 1 khoản 3 cho phép Thượng viện giữ quyền xét xử mọi đàn hặc-impeachment (ví dụ đối với
tổng thống) do Hạ viện đề xuất - nghĩa là có thể Hạ viện muốn phế truất Tổng
thống nhưng Thượng viện khi xét xử lại không đồng ý - tức bảo vệ Tổng thống.
[12] Nguyên văn “All the power surrendered by the people”.
Từ “surrender” nghĩa đen là “đầu hàng”, “từ bỏ”, “giao nộp” với ý buộc chấp
nhận trong hoàn cảnh hết khả năng. Cách dùng từ này của tác giả có thể xuất
phát từ triết lý chính trị cho rằng người dân không thể tự dùng quyền lực của
bản thân trong việc điều hành cộng đồng (như nền dân chủ sơ khai của Hy Lạp
cổ), nhân dân buộc phải từ bỏ quyền lực đó cho một số người khác nếu muốn có
một xã hội được quản trị tốt.
[13] Đoạn này lại
cho thấy quan điểm của các tác giả Federalist, nhất là James Madison (thể
hiện trong FP 10) rất e ngại sự độc tài của đa số và rất lưu tâm tới quyền của thiểu số.
[14] “the United
States” tức Liên bang Mỹ theo mô hình như Hiến pháp dự thảo đề xuất.
[15] Cả đoạn này có
nghĩa dễ hiểu hơn là: Chia Liên bang thành nhiều thực thể nhỏ sẽ gây mất an
ninh cho các quyền tự do của công dân nhưng lại làm tăng an ninh cho quyền lực
của một số kẻ cầm quyền.
[16] Nguyên văn
“the weaker individual is not secured against the violence of the stronger”.
[17] Rhode Island là
tiểu Bang có kích thước rất nhỏ so với các tiểu Bang khác và là tiểu Bang duy
nhất không gửi đại diện tham dự Hội nghị (lập hiến) Philadelphia.
[18] “popular form
of government”. Xem thêm phần Thuật
ngữ mục “Chính thể bình đân”.