Chỉ còn 03 ngày nữa là đến phiên tòa xét xử ba thành viên của Câu lạc bộ
Nhà báo Tự do và 05 ngày nữa là tới phiên tòa phúc thẩm dành cho bốn anh em
người Công giáo còn rất trẻ. Lẽ thường nói đến “Tòa Án” hay “Phiên Tòa” là
người ta phải nghĩ tới Công lý, phải liên tưởng tới những thủ tục nghiêm cẩn,
khách quan, phân minh, chính trực nhằm tìm ra Sự thật và lập lại Công Lý. Nhưng liệu
những “phiên tòa” sắp diễn ra nói trên có thể mang lại Công lý, Sự thật, dù là chút nhỏ
nhoi, không? Hy vọng bài viết sau sẽ giúp chúng ta tìm được câu trả lời cho câu hỏi khắc khoải này.
Công Khai Là Linh Hồn Của Công Lý
Nam Hải Trường Sơn
Nguyên tắc tòa
án mở (open courts) là một nền tảng chủ chốt của hệ thống tư pháp độc lập trong
các xã hội dân chủ tự do và việc xét xử công khai (public trial) là hiến quyền
tại nhiều nước phương Tây. Vào tòa quan sát việc xét xử cũng dễ dàng và đơn
giản như vào thư viện công cộng đọc sách. Kiến nghị hay xin phép tham dự là
chuyện thừa thãi không cần thiết, phí phạm thời gian và tài nguyên của tòa án
cũng như của chính mình.
Mục Đích Của
Nguyên Tắc Tòa Án Mở
Nguyên tắc tòa
án mở phát xuất từ mục đích phục vụ năm nhu cầu chủ yếu của một hệ thống tư
pháp công chính.
Thứ nhất, tòa
án mở có tác dụng duy trì tiến trình duyệt xét chứng cứ hữu hiệu. Về mặt tâm lý
chủ quan, sự hiện diện của khán giả sẽ giảm thiểu khả năng khai man và bóp méo
sự thật của nhân chứng bằng cách khuyến khích tinh thần trách nhiệm trước dư
luận công chúng (qua biểu tượng của khán giả hiện trường đang sẵn sàng khinh
miệt kẻ gian dối trước tòa). Đồng thời, sự hiện diện của khán giả sẽ khiến nhân
chứng e sợ rằng lời khai man của họ có thể bị những người biết rõ nội tình
trong đám khán giả (hoặc những người khác được khán giả hiện trường báo cho
biết về lời khai của nhân chứng) vạch trần. Về mặt cơ hội khách quan, tòa án mở
tạo điều kiện cho những người biết rõ nội tình tham gia quan sát việc xét xử và
qua đó có thể đứng ra làm chứng, cung cấp thêm thông tin (mà trước đây nguyên
cáo hoặc bị cáo cũng như quan tòa và bồi thẩm đoàn chưa hề biết) để làm sáng tỏ
vấn đề hoặc để đối chất với kẻ khai man trước tòa.
Thứ hai, tòa án
mở góp phần đảm bảo rằng quan tòa và bồi thẩm đoàn hành xử đúng đắn, có nhiệm
vụ khắc phục thành kiến cá nhân, và phản ánh giá trị của cộng đồng để tạo dựng
niềm tin cho người thưa kiện rằng trình tự cũng như kết quả của việc tố tụng là
công bằng.
Thứ ba, tòa án
mở xúc tiến cảm thức chung của công dân rằng tòa án hoạt động dựa trên cơ sở
chính trực và sự hiện diện của khán giả nâng cao chất lượng của quá trình thực
thi công lý.
Thứ tư, tòa án
mở tạo điều kiện để người dân có cơ hội học hỏi về cơ chế vận hành của hệ thống
tư pháp và thấu hiểu việc pháp luật ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ được
áp dụng như thế nào tại tòa án.
Ngoài bốn mục
đích có giá trị về mặt hệ thống và xã hội nêu trên, tòa án mở còn nhắm vào mục
đích phục vụ quyền lợi riêng của nguyên cáo, bị cáo hoặc những cá nhân khác có
liên quan trực tiếp đến nội vụ tố tụng. Tòa án mở là diễn đàn công cộng được
pháp luật bảo vệ để họ có thể mạnh dạn thổ lộ trước mặt quần chúng những uất ức
hoặc bất công mà họ đã phải âm thầm gánh chịu.
Cơ Sở Pháp Lý
Tại Bắc Mỹ
Tại Canada, tòa
án là trường sở công cộng và những gì xảy ra tại tòa án là việc công cho dù tòa
án chỉ đang xét xử tranh chấp riêng tư giữa hai cá nhân hay cá thể. Bởi thế,
tòa án phải được mở rộng để công chúng tự do quan sát, thảo luận, và báo cáo
những gì xảy ra tại đó. Tính trọng yếu của nguyên tắc tòa án mở đã có một lịch
sử cao quý kéo dài đến cả mấy thế kỷ nay.
Vào năm 1913,
thẩm phán Loreburn, trong án lệ nổi tiếng Scott v. Scott, đã xác nhận
rằng: "Một luật lệ thâm căn cố đế [trong hệ thống tư pháp của Khối Liên
Hiệp Anh] là công lý phải được thực thi giữa tòa án mở." Cũng trong án lệ
này, thẩm phán Shaw đã tuyên bố rằng: "Công khai là linh hồn của công
lý." Hay nói cụ thể như ý kiến đồng thuận của thẩm phán Halsbury:
"[T]ất cả các Tòa Án công lý đều mở rộng để đón tiếp mọi thần dân của Quốc
Vương."[1]
Trong án lệ R.
v. Josephson, Tối Cao Pháp Viện Canada tái khẳng định rằng: "Đặc tính
công cộng và mở rộng của tòa án là một nguyên tắc của luật phổ thông [luật tiền
lệ] và nếu những điều kiện đó không được thỏa mãn thì tòa án sẽ không tồn tại
và mọi trình tự đều vô hiệu lực."[2]
Khi Bản Hiến
Chương Nhân Quyền Và Tự Do được ban hành vào năm 1982 (được gọi tắt là Bản
Hiến Chương), nguyên tắc tòa án mở của luật phổ thông được gián tiếp đưa
lên địa vị hiến quyền. Trong án lệ Edmonton Journal v. Alberta (A.G.),
Tối Cao Pháp Viện Canada xác nhận rằng quyền tự do biểu đạt (bao gồm quyền tự
do báo chí) được liệt kê trong điều 2(b) của Bản Hiến Chương có tác dụng
bảo vệ quyền tự do tham gia quan sát việc xét xử tại tòa án.[3]
Tương tự, trong
án lệ Richmond Newspapers, Inc. v. Virginia, chánh án Burger của Tối Cao
Pháp Viện Hoa Kỳ cũng xác nhận rằng: "Chúng ta không tìm thấy có chứng cứ
gì để gợi ý rằng tính công khai được giả định của quá trình tố tụng, mà các tòa
án tại Anh Quốc về sau gọi là 'một phẩm chất cốt lõi của một tòa án công lý'
... cũng không phải là một đặc tính của các hệ thống tư pháp tại thuộc địa Hoa
Kỳ .... Từ dòng lịch sử được hậu thuẫn bằng những lý do có giá trị trong hiện
tại cũng như trong nhiều thế kỷ đã qua mà chưa hề bị phủ nhận và gián đoạn đó,
chúng ta buộc phải kết luận rằng tính công khai là một giả định cố hữu của
chính bản chất quá trình tố tụng hình sự trong hệ thống công lý của chúng
ta." Để củng cố truyền thống này, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán quyết
rằng quyền tham quan việc xét xử tại tòa án hình sự của công chúng cũng tiềm
tàng trong những bảo đảm của Tu Chính Án Số I (như tự do hội tập, tự do ngôn
luận, và tự do báo chí) bởi vì "nếu thiếu quyền tự do tham gia những tiến
trình tố tụng mà công chúng đã thực hiện trong nhiều thế kỷ đó, những khía cạnh
quan trọng của tự do ngôn luận và 'tự do báo chí có thể bị moi ruột,' [nói theo
ngôn từ của thẩm phán White trong án lệ Branzburg v. Hayes]."[4]
Giới Hạn Của
Việc Xét Xử Công Khai
Tuy nguyên tắc
tòa án mở là một phẩm chất cốt lõi của hệ thống tư pháp dân chủ tự do, tham dự
tiến trình tố tụng không phải là một hiến quyền tuyệt đối. Nói cách khác, tùy
theo hoàn cảnh, tòa án có thể hạn chế quyền tham dự của một số hay toàn bộ công
chúng nhằm duy trì trật tự và bảo vệ đạo đức công cộng, thực thi công lý một
cách đúng đắn, hoặc ngăn ngừa việc gây tổn hại cho quan hệ quốc tế, quốc phòng
hay an ninh quốc gia. Sau đây là một số ví dụ cụ thể.
Tòa án là
trường sở công cộng thường có diện tích tương đối hạn hẹp và số lượng chỗ ngồi
dành cho khán giả tương đối ít. Trong trường hợp phiên tòa thu hút quá nhiều
người muốn tham quan, tòa án có thể dùng hệ thống bốc thăm hay xổ số để phân
phát chỗ ngồi cho công chúng và giới truyền thông, dựa theo nguyên tắc chọn lựa
ngẫu nhiên. Tòa án có quyền từ chối tiếp nhận công chúng nếu sức chứa của tòa
đã đạt giới hạn. Tòa án có quyền cấm người quan sát tụ tập giữa lối đi hay hành
lang của tòa, để duy trì việc thông hành. Tòa án có quyền đuổi những kẻ phá rối
trật tự hoặc tỏ thái độ uy hiếp nhân chứng ra khỏi tòa.
Tại Hoa Kỳ, Tu
Chính Án Số I không bắt buộc tòa án phải truyền hình bất cứ trình tự tố tụng
nào. Trong thực tế, khẩu biện trước Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ chưa bao giờ được
truyền hình cho công chúng xem lần nào cả. Tòa án có thể nghiêm cấm vệc sử dụng
máy chụp hình hay máy truyền hình trong nội thất tòa án.
Tòa án có quyền
ban hành lệnh cấm các cơ quan truyền thông cũng như công chúng loan báo những
gì xảy ra tại phiên tòa để bảo vệ thân phận của tất cả các nạn nhân hay nhân
chứng vị thành niên (thường là dưới 18 tuổi) trong các vụ án xét xử tội trạng
bạo hành tính dục. Tòa án có quyền mời toàn bộ khán giả ra khỏi tòa án trong
khoảng thời gian mà lời khai của nhân chứng thổ lộ bí mật quốc gia hay bí mật
thương nghiệp, nhưng không thể lâu hơn thế, cũng như có quyền loại trừ sự hiện
diện của trẻ thơ dưới hai tuổi mà không cần viện dẫn lý do.
Cơ Sở Pháp Lý
Tại Việt Nam
Điều 131 của Hiến
Pháp Việt Nam 1992 (được sửa đổi và bổ sung năm 2001, và sau đây tôi sẽ gọi
tắt là Hiến Pháp) quy định: "Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ
trường hợp do luật định." Điều khoản này có hai ý nghĩa pháp lý chủ yếu.
Thứ nhất, tiến hành việc xét xử công khai là một trách nhiệm hiến định
mà bất cứ Tòa Án Nhân Dân nào (bao gồm Tòa Án Nhân Dân Tối Cao) cũng phải thực
thi nghiêm chỉnh. Thứ hai, điều khoản này gián tiếp thừa nhận rằng công chúng
có quyền tự do tham dự việc xét xử tại tất cả mọi Tòa Án Nhân Dân. Bởi
lẽ nếu người dân bị khước từ quyền hạn này thì điều 131 sẽ trở nên vô nghĩa vì
Tòa Án Nhân Dân không thể thi hành nhiệm vụ xét xử công khai hiến định của mình
khi công chúng không có hiến quyền tương xứng để tự do hiện diện tại tòa án.
Hai khía cạnh pháp lý hỗ tương ỷ tồn này (trách nhiệm của tòa và quyền của công
dân) được điều 18 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự diễn giải và quy định một
cách rõ ràng: “Việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều
có quyền tham dự, trừ trường hợp do bộ luật này quy định."
Lý Thuyết Và
Hiện Thực
So sánh văn bản
hiếp pháp của Canada, Hoa Kỳ, và Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ địa vị hiến
pháp của nguyên tắc tòa án mở tại Việt Nam được xác lập một cách trực tiếp,
mạnh mẽ và hiển nhiên hơn cả. Điều nổi bật đáng nói là trách nhiệm hiến
định của Tòa Án Nhân Dân trong việc xét xử công khai. Nhưng vẻ đẹp đối tỉ kết
thúc hụt hẫng ở ngay đây vì điều trớ trêu đáng ân hận là tu từ hoa mỹ này chẳng
có tí giá trị thực tiễn nào cả.
Lúc còn là sinh
viên trường luật tại Canada, một chuyện làm tôi rất hổ thẹn và đau lòng là khi
bàn đến Hiến Pháp của Việt Nam các bạn học cùng lớp hội thảo luật hiến
pháp của tôi đã từng tuyên bố một cách mỉa mai rằng: "Vietnam's
Constitution is a joke!" ("Hiến Pháp Việt Nam là một trò
hề!").
Tôi cứng họng, bởi vì chỉ nhìn vào điều 4 của Hiến Pháp
không thôi là tôi biết mình sẽ đuối lý; nó hiến pháp hóa sự lãnh đạo tuyệt đối
và vô kỳ hạn của Đảng và đồng thời là điều khoản duy nhất được thực sự thi hành
tại Việt Nam. Đối với những phần còn lại, vị giáo sư phụ trách lớp hội thảo này
phê một câu có tính chất ngoại giao cao hơn vì nó mang ý nghĩa nước đôi:
"Just words!" Vừa như khen lại vừa như chê. Khen, nếu chữ
"just" được dùng dưới dạng tính từ: "Ngôn từ công lý!" Chê,
nếu chữ "just" được dùng dưới dạng trạng từ (tương đương với
"only"): "Chỉ là ngôn từ thôi!" Nhưng dẫu hiểu theo cách
nào đi nữa trọng tâm vẫn là chữ "words" với hàm ý là ngôn từ hay lý
thuyết không có giá trị thực tiễn.
Hơn mười mấy
năm trôi qua, lời bình của bạn học và thầy cũ của tôi vẫn giữ nguyên vẹn tính
chính xác. Nhưng tôi biết chắc họ sẽ hân hoan vô cùng nếu ngược lại ý kiến của
họ không còn hợp thời nữa. Tòa án mở cũng như tất cả mọi khía cạnh công lý và
bình đẳng khác của xã hội Việt Nam chỉ trở thành hiện thực khi công cuộc cách
mạng dân chủ thành công. Đó là một hành trình gian nan nhưng chúng ta phải mạnh
dạn dấn bước.○
[1]Scott
v. Scott, [1913] A.C. 417.
[2]R.
v. Josephson (1949), 7 C.R. 273 (Man.
C.A.).
[3]Edmonton
Journal v. Alberta (A.G.), [1989] 2
S.C.R. 1326.
[4]Richmond
Newspapers, Inc. v. Virginia, 448
U.S. 555 (1980).
(Như Cây Tre Việt
Nam trân trọng cảm ơn tác giả đã cho phép sử dụng bài và biên tập lại cho phù
hợp với bối cảnh hiện thời. Bài gốc có thể xem tại: Blog Nam Hải Trường Sơn)