Trong lịch sử phát triển và hoàn thiện thể chế dân
chủ (democracy) của nhân loại, những nước đi sau thường bao giờ cũng được hưởng
lợi nhiều hơn khi đã nhìn thấy rõ những thiết chế (institution) cơ bản của dân
chủ như cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp, các đảng phái chính trị hay
hiến pháp…Nhưng điều đó không có nghĩa những nước đi sau hoàn toàn có thể dễ
dàng xây dựng được ngay các thể chế dân chủ thành tâm và vững vàng như Thụy Điển,
Na uy, Hoa Kỳ, Đức, Australia, Pháp,…Bởi, phía sau các thiết chế quen thuộc và
dễ mô tả đó là cả một nền văn hóa dân chủ cùng nhiều thiết chế dân chủ thiết
yếu khác đã được công phu tạo dựng và bồi đắp qua nhiều thế hệ. Đấy là chưa nói
đến những nan giải do những kẻ độc tài của thời đại dân chủ luôn tạo ra các
loại dân chủ giả hiệu, giả hình để đánh lừa dân chúng. Những kẻ độc tài có thể
rất kém trong việc kinh bang tế thế cho quốc gia, dân tộc, nhưng chúng ta đừng
quên nghề của họ là làm cho quyền lực độc đoán sống lâu và sống đẹp – đẹp về
hình thức.
Dư luận Việt Nam đang sôi nổi sau khi Đảng Cộng sản
Việt Nam lại đưa ra kế hoạch cải cách hiến pháp. Lần này đa phần giới trí thức
có tiếng, gần gũi với Đảng đang hưởng ứng kế hoạch đó với những kiến nghị và
vận động theo hướng thiết lập một nền dân chủ có hình thức như ở phương Tây với
một yêu cầu gần như thống nhất là hiến pháp lần này phải được trưng cầu ý dân
(referendum). Nhưng dư luận cũng có ý kiến ngược lại. Như Cây Tre Việt Nam trân trọng
giới thiệu một ý kiến ngược lại và đang thuộc về thiểu số đó:
Bao nhiêu ý dân thì đủ?
Tháng 2 22, 2013
Phạm Thị Hoài
Từ khi tôi trở thành
công dân Đức, Hiến pháp Đức đã có 10 bổ sung, sửa đổi mà tôi không hề được hỏi
ý kiến. Nhưng không chỉ riêng tôi. Hàng xóm, bạn bè, người quen, đồng nghiệp,
tất cả đều như vậy. Nhân dân CHLB Đức chưa bao giờ được trưng cầu ý kiến về văn
bản tối thượng mang tên Grundgesetz (Luật Cơ bản) của mình.
Nó được soạn thảo bởi
65 vị trong Parlamentarischer Rat (Hội đồng Nghị viện), dưới
sự ủy nhiệm và kèm cặp của chính quyền quân quản Anh, Pháp và Mỹ sau Thế chiến
II. Sau khi được thông qua với 53 phiếu thuận và 12 phiếu chống trong Hội đồng
Nghị viện, nó được trình cho ba chính quyền Đồng minh nêu trên xét duyệt. Sau
khi được các Thống đốc Quân sự Anh, Pháp, Mỹ chấp nhận, nó được gửi đến các
nghị viện tiểu bang để phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn, ngày 23-5-1949 nó
được Hội đồng Nghị viện chính thức tuyên bố là văn bản lập quốc. Nước Cộng hòa
Liên bang Đức (Tây Đức cũ) ra đời với bản Hiến pháp ấy. Người dân – bốn năm
trước còn sống trong Đế chế Quốc xã với Quốc trưởng Hitler – không trực tiếp, nếu
không muốn nói là không tham dự vào quy trình lập hiến đó. Bản hiến pháp được
coi là hoàn hảo nhất trong lịch sử nước Đức ấy không do ý nguyện dân chủ từ
dưới lên sinh ra, mà do ý chí chính trị từ trên xuống, thậm chí với áp đặt từ
các thế lực ngoại bang.
Năm 1990, trong quy
trình thống nhất nước Đức, nghị viện của các tiểu bang thuộc Đông Đức cũ cũng
phê chuẩn và gia nhập Hiến pháp này mà nhân dân Đức ở cả bên Đông lẫn bên Tây
đều không được trực tiếp biểu quyết. Trong 64 năm từ khi ra đời, Hiến pháp Đức
có 59 bổ sung, sửa đổi, lần cuối cùng vào giữa năm ngoái. Không một lần nào có
trưng cầu ý dân.[i]
Song điều đó không cản trở nước Đức, không lâu sau sự ngự trị của cả hai chế độ
toàn trị kinh hoàng của thế kỉ 20 là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản
trên lãnh thổ của mình, thành một trong những nền dân chủ trưởng thành và ổn
định nhất trên thế giới.
Hiển nhiên mỗi quốc
gia có con đường lập hiến của riêng mình. Trong cuộc thảo luận về Dự thảo Hiến
pháp sửa đổi đang diễn ra ở Việt Nam, một trong những tiêu chí được nhấn mạnh không chỉ ở giới cấp tiến là quyền lập hiến
của người dân. Báo chí Việt Nam, cả chính mạch lẫn ngoài luồng, tràn ngập những
lời đòi hỏi, xác nhận và xiển dương nguyên tắc mọi quyền lực nhà nước xuất phát
từ nhân dân và thuộc về nhân dân. Trên mặt chữ, chưa bao giờ nhân dân được kính
trọng, được gửi gắm nhiều tin cậy, được phó thác nhiều quyền lực như thế. Nhiều
đến mức không thể không nghi vấn. Trong thực tế, những khái niệm trừu tượng này
được thực hiện qua những hình thức và cấp độ khác nhau của trưng cầu ý dân (referendum).
Song trong những điều kiện hiện có, tôi rất
hoài nghi giá trị của một cuộc trưng cầu như thế tại Việt Nam. Thậm chí tôi còn
cho rằng thay vì thực hiện chức năng thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa xã hội lên
phía trước, nó có nhiều nguy cơ kéo giật lùi tiến trình ấy về phía sau. Một
phát đạn ngược nòng. Điều này không liên quan gì đến lập luận nhảm nhí rằng dân
trí chưa cao thì chưa thể thi hành dân chủ, bởi lẽ một cuộc trưng cầu ý dân tại
Việt Nam, đặc biệt ở hình thức cao nhất là toàn dân phúc quyết hiến pháp, có
thể là tất cả mọi thứ, chỉ trừ là một hành động thực thi dân chủ.
Ai nắm trong tay mọi
phương tiện có thể khuynh loát vô giới hạn tất cả các khâu trọng yếu của một
cuộc trưng cầu ý dân trong thời điểm hiện tại, từ chuẩn bị nội dung cần đưa ra
trưng cầu, tổ chức thông tin và quảng bá, tổ chức và giám sát bỏ phiếu, tổ chức
và giám sát kiểm phiếu, đến đánh giá, công bố và thực thi kết quả? Ai có thể
điều khiển, nhồi sọ và lừa mị dư luận bằng bộ máy tuyên truyền khổng lồ của
mình? Ai có thể đe dọa cử tri bằng guồng máy đàn áp khét tiếng của mình? Ai có
thể mua những lá phiếu bằng đủ thứ hứa hẹn ban phát ưu đãi và thậm chí bằng đất
tươi và tiền mặt? Ai có thể tùy tiện chế biến, diễn giải và sử dụng kết quả bỏ
phiếu theo ý mình? Những người đưa ra kiến nghị
trưng cầu ý dân đã không quên đòi hỏi đi kèm, rằng nó phải được
“tổ chức thật sự minh bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo
giới“. Nhưng chỉ cần đặt tiếp một số câu hỏi đơn giản hơn – Báo giới nào?
Người dân nào được chọn trên cơ sở tiêu chuẩn nào vào vai giám sát? Minh bạch
theo đánh giá của ai?… – là có thể thấy rằng hiện tại, một cuộc trưng cầu đáp
ứng được những đòi hỏi ấy là hoàn toàn bất khả thi.
Thêm vào đó, đa số dân chúng Việt Nam là những
người đã có hơn một nửa thế kỉ để rèn luyện tinh thần cầu an và thụ động như
những kĩ năng sống căn bản. Hai chục năm gần đây họ còn tích lũy thêm một kĩ
năng đầy tinh thần thời đại khác: bàng quan với mọi vấn đề không trực tiếp đụng
chạm đến quyền lợi của mình và gia đình. Họ cũng dễ bị tha hóa và đã bị tha hóa
sâu sắc như chính những người cai trị họ. Tôi không có những con số cụ thể –
tất nhiên, không ai có cả – nhưng theo cảm nhận riêng thì ước chừng 20% cử tri
Việt Nam là những người từ trung thành đến trung thành tuyệt đối với chế độ
hiện tại; 30% là những người có thể không ưa mặt này hay mặt khác của chế độ
đó, ít hay nhiều có những bất mãn hoặc bất bình cục bộ, song hợp tác và gắn bó
với chế độ về nhiều phương diện – kể cả phương diện sổ hưu. Vâng, vì sao không?
– và không có nhu cầu thay thế nó bằng một chế độ nào khác mà họ chưa từng biết
hay chỉ nghe nói loáng thoáng; 40% là những người không biết và không cần biết
mình đang sống trong một thể chế nào, miễn sao cuộc sống thường nhật của mình
được bảo đảm; 8% là những người mong muốn thay đổi thể chế chính trị bằng phép
mầu từ lột xác của Đảng Cộng sản và liều thuốc thần tự cải cách của chế độ.
Những người chủ trương thay thế toàn bộ hệ thống Đảng trị và công an trị hiện
tại bằng mô hình dân chủ tự do phương Tây chiếm vỏn vẹn 2% còn lại – tức trên
dưới 1 triệu người, tính một cách hào phóng, con số trong thực tế có thể khiêm
tốn hơn rất nhiều.
Từ những hoàn cảnh ấy,
không cần phải là một nhà tiên tri cũng có thể biết trước kết quả của một cuộc
trưng cầu ý dân tại Việt Nam. Không có gì dễ dàng và khôn ngoan hơn cho chính
quyền Hà Nội, nếu nó cho diễn ngay lập tức một màn kịch như thế. Trong khói lửa
của cuộc nội chiến, đầu năm ngoái Tổng thống Syria Assad đã thành công rực rỡ
với nước cờ toàn dân phúc quyết hiến pháp, trong khi phe đối lập nỗ lực ngăn
cản sự kiện này. Gần 90% cử tri tán thành bản hiến pháp mới, trong đó thậm chí
nguyên tắc đa đảng được xác nhận. Nhà độc tài lại hoàn toàn chính danh. Trước
đó, chính quyền không thể gọi là dân chủ ở Maroc cũng nhanh chân thoát khỏi áp
lực của Mùa Xuân Ảrập bằng cách mở vài cái van phụ trong hiến pháp sửa đổi và
có thể hài lòng với 98 % số phiếu thuận. Trưng cầu ý dân ở Ai Cập thì đem lại
cho đất nước này một hiến pháp thần quyền, với nền tảng là Luật Hồi giáo
Sharia, bất chấp sự cự tuyệt của chính các thẩm phán và các nhóm đối lập. Xa
hơn một chút trong lịch sử, cuộc trưng cầu ý dân duy nhất trên lãnh thổ Việt
Nam năm 1955 phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng
thống đã không tặng cho người dân miền Nam một thể chế dân chủ đáng mơ ước. Xa
hơn chút nữa, cuộc biểu quyết của toàn dân (Volksabstimmung) năm 1934
tại Đức với gần 90% số phiếu thuận đã đặt một nhân vật lên bệ phóng, để đẩy cả
lịch sử đất nước này lẫn lịch sử thế giới vào một chương cực kì đen tối: Adolf
Hitler.
Bao nhiêu ý dân thì đủ đảm bảo một hiến pháp
tốt đẹp?
Tôi không ủng hộ đề nghị tổ chức toàn dân phúc
quyết hiến pháp tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. ○
Nguồn: Pro & Contra
[i]
Thậm chí đa số dân chúng Đức còn không biết rõ
hay không quan tâm điều gì được bổ sung, điều gì được sửa đổi. Thái độ đó có
những cơ sở mà tôi sẽ đề cập trong một dịp khác.