Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Hậu ý cuộc bắt giữ ngày 21/08/2011


Hồi còn học phổ thông và cả khi học đại học, khi học về giai đoạn lịch sử của Việt Nam từ 1956-1975, chúng tôi luôn được dạy rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là của những kẻ “ngụy quyền bán nước”, hoặc “quân tay sai, bán nước” cho “kẻ xâm lược Mỹ”. Nhiều hình ảnh và phim ảnh minh họa cho các bài học đó bao giờ cũng có những cuộc biểu tình, tuần hành nườm nượp người đi ngay giữa các đường phố của thủ đô Hà Nội mến yêu, với những khẩu hiệu, băng-đơ-rôn rất to: “Đả đảo bè lũ tay sai bán nước”, “Đả đảo quân xâm lược”. Nhưng sau này khi tự tìm hiểu thêm thì chúng tôi không thấy một tư liệu hay một nguồn tin nào cho thấy Việt Nam Cộng Hòa “quân tay sai bán nước” đã ký hiệp định hay đàm phán gì với Mỹ hay với bất kỳ quốc gia nào dẫn đến để mất lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc. Ngược lại, các tư liệu còn cho thấy chính quyền Việt Nam Cộng Hòa còn thể hiện một lập trường dứt khoát, cương quyết trong việc phản đối và bảo vệ Hoàng Sa khi Trung Quốc cộng sản của Mao Trạch Đông tấn công chiếm Hoàng Sa năm 1974. Thời còn sinh viên non nớt đó nhiều đứa chúng tôi, những người có bà con sống ở miền Nam trước 1975, cũng thấy một điều rất lạ là “ngụy quyền bán nước” không bao giờ để ảnh của tổng thống Mỹ được treo cạnh ảnh của tổng thống “ngụy quyền” trong các công sở. Đó là vài chuyện vụn vặt của khoảng vài chục và nhiều năm về trước.

Từ đầu tháng Sáu năm 2011 đến nay, ở giữa thủ đô Hà Nội cũng có các cuộc biểu tình với nhiều khẩu hiệu, băng-đơ-rôn rất to, với thiết kế, màu sắc rất bắt mắt, ấn tượng để phản đối, đả đảo quân xâm lược Trung Quốc, nhưng tuyệt không có một chữ nào nói đến từ “bán nước” hay “đả đảo bè lũ tay sai bán nước”. Thậm chí còn có nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ ca ngợi, trích dẫn lời nói, hình ảnh của các vị lãnh tụ, lãnh đạo của nhà nước, của chế độ hiện nay- một nhà nước, một chế độ đã có những công hàm đặc biệt như Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, có những hiệp định đặc biệt với Trung Quốc như Hiệp ước Biên giới năm 1999 và Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ năm 2000, có những so sánh hình tượng bất hủ về mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là “Mối tình thắm thiết đơm hoa vừa là đồng chí, vừa là anh em” và biết bao những thỏa thuận đặc biệt khác với Trung Quốc mà nhiều lão thành cách mạng cũng đã phải lên tiếng đòi bạch hóa hay phản đối.

Chúng tôi thầm nghĩ phải chăng những người biểu tình chống quân xâm lược Trung Quốc vừa qua lại mắc sai lầm, ấu trĩ như thời trước, chỉ có khác là ngày trước nhiều người đã đả đảo lầm người yêu nước là kẻ bán nước, còn nay thì ngược lại, quên mất kẻ bán nước?

Đó là điều rất có thể vì con người là một thực thể có khả năng mắc sai lầm (fallible creature). Nhưng cũng rất có thể chính chúng tôi lại mới là kẻ sai lầm, cứ đinh ninh rằng những người cầm quyền rất yêu nước của chế độ này là kẻ bán nước hoặc là kẻ đồng lõa với quân Trung Quốc xâm lược. Nhưng liệu những người tham gia, trợ giúp biểu tình chống Trung Quốc xâm lược vào ngày hôm qua (21/08/2011) vẫn đang bị giam cầm ở Hỏa Lò (hay ở Mỹ Đình) và những gia đình của họ, những người ủng hộ, yêu mến, kính trọng họ có đồng ý rằng chúng tôi là kẻ sai lầm như vậy hay không? Chắc phải chờ đến lúc tất cả những người biểu tình yêu nước đó bước chân ra khỏi nhà tù thì mới biết được.

Phạm Hồng Sơn
21:30 22/08/2011

Vài phản biện về bài “Thoát Trung Luận”

Vài phản biện về bài “Thoát Trung Luận”

Cách đây ít hôm một bài viết có nhan đề “Thoát Trung Luận” của tác giả Giáp Văn Dương đã được đăng tải trên nhiều trang mạng phi nhà nước. Tác giả Giáp Văn Dương đã đề cập đến một vấn đề không chỉ có tính thời sự mà còn có tính chiến lược cho sự phát triển của đất nước Việt Nam: “Cần thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc!” Như tác giả nhận định, quan điểm vừa nêu phần lớn mới chỉ được nhiều người thể hiện ở mức “trực giác”, chưa có tính “hệ thống” hay “mạch lạc”. Tiếp theo, tác giả trình bày cơ sở lý luận của mình cho quan điểm “Thoát Trung” đó, có thể tóm tắt làm hai ý chính: phần 1: tác giả chứng minh “Thoát Trung” đã là ý muốn của tổ tiên ta từ xa xưa; phần 2: tác giả mô tả sự phụ thuộc, rập khuôn tai hại hiện nay của Việt Nam vào Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực và cuối cùng tác giả đưa ra lời kêu gọi “Thoát Trung hay là chết” như tổ tiên đã ra lệnh.

Tuy nhiên toàn bộ bài viết “Thoát Trung Luận” của Giáp Văn Dương vẫn cho thấy tác giả chủ yếu dựa vào sự nhiệt huyết dân tộc và cảm tình với tổ quốc để chứng minh cho một quan điểm hơn là dựa vào các cứ liệu hay tư duy hệ thống. Sau đây là vài điểm minh họa cho nhận định này:

- Giáp Văn Dương viết: “Khi còn nhỏ, tôi đã từng ngạc nhiên khi đọc bài hịch của vua Quang Trung khích lệ tướng sĩ trước khi ra trận: “Đánh cho để dài tóc. Đánh cho để răng đen…”. Tôi đã tự hỏi, vì sao nhà Vua không chọn những biểu tượng lớn lao hơn mà lại chọn những điều nhỏ nhặt như vậy để động viên quân sĩ ? Nhưng càng ngày tôi càng thấm thía : Đó là lòng kiên định của tổ tiên nhằm thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nền văn hóa Trung Hoa, ngay từ những việc nhỏ nhất.”

*Việc chỉ căn cứ vào lời nói của một ông vua trong cả một lịch sử hàng ngàn năm để kết luận đó là “lòng kiên định của tổ tiên” thì đó là một suy diễn quá xa và yếu ớt trong nghiên cứu lịch sử. Hơn nữa một “nền văn hóa” không chỉ thể hiện hay kết tụ ở kiểu tóc hay màu răng. Dĩ nhiên chữ “tóc” và “răng” trong lời hiệu triệu của Quang Trung có thể chỉ có tính biểu tượng nhưng nếu ta quá câu nệ vào đó thì sẽ dễ làm cho chúng ta quên mất cái hệ lụy quan trọng nhất của một sự ảnh hưởng của văn hóa không phải là những thứ hữu hình mà là những giá trị vô hình – cách tư duy.

- Giáp Văn Dương viết tiếp phần trên: “Ý thức vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này là thường trực. Tuy nhiều lúc bị chao đảo bởi sự tấn công mạnh mẽ đến từ phương Bắc, nhưng mỗi khi cần đến thì ý thức vùng thoát này lại bùng lên dữ dội.”

*Ở đây tác giả lại tiếp tục suy diễn quá xa theo kiểu khẳng định đồng nhất ý muốn của các triều đại phong kiến Việt Nam. Nhìn vào trường lịch sử của Việt Nam thì đúng ra là mọi triều đại phong kiến Việt Nam chỉ thường trực ý thức cảnh giác với ý đồ xâm lược từ phương Bắc. Và thường mỗi khi bị phương Bắc xâm lược thì các triều đại phong kiến Việt Nam có phản ứng chống lại một bộ phận văn hóa phương Bắc như một biện pháp tuyên truyền để cổ xúy tinh thần chống ngoại xâm hơn là ý thức thoát khỏi ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc một cách cơ bản. Một bằng cớ rõ ràng là Văn Miếu (nơi thờ Khổng Tử - một biểu tượng và là một trong những tác giả lớn của nền văn hóa Trung Quốc) vẫn luôn được bảo vệ và tôn tạo từ đời Lý Thánh Tông trở về sau.

- Tiếp theo Giáp Văn Dương đưa ra thêm một số cứ liệu minh chứng cho tinh thần “Thoát Trung” của tổ tiên chúng ta như vấn đề chữ viết, tên nước:

+ “Nỗ lực xây dựng chữ viết riêng cho dân tộc như chữ Nôm của cha ông.” (Giáp Văn Dương)

*Thực ra chữ Nôm cũng chỉ là một phó bản kém của chữ Hán. Vấn đề “Thoát Trung” điều quan trọng không phải là từ bỏ một cách manh mún những sản phẩm hay công cụ văn hóa của Trung Quốc mà phải là nhận ra những điểm yếu, lạc hậu, cản trở của nền văn hóa đó đối với sự phát triển và phải xây hoặc tìm lấy được những giá trị văn hóa tiến bộ hơn.

+ “, và gần đây nhất là việc toàn dân đồng loạt chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, là minh chứng rõ ràng cho sự vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này.” (Giáp Văn Dương)

*Thực tế đây chỉ là một phản ứng thụ động của sự biến đổi do những người ở phương Tây đem lại và nếu là ý thức chủ động thoát khỏi phương Bắc thì cũng chỉ của một bộ phận nhỏ của sĩ phu đương thời (đã có tiếp cận với văn hóa phương Tây) mà thôi.

+ “Riêng với việc chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, có thể nói, đây là một cuộc thoát Trung ngoạn mục.” (Giáp Văn Dương)

*Chữ quốc ngữ chỉ là một yếu tố, một điều kiện thuận lợi cho việc rời xa văn hóa Trung Quốc mà thôi. Thực tế đã cho thấy hai Việt Nam (Bắc và Nam từ 1954-1975) cùng sử dụng chữ quốc ngữ nhưng miền Bắc lại gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc.

+ “Thành quả của nó thật đáng nể: Số người biết đọc biết viết tăng lên gấp bội, số lượng văn bản sử dụng chữ quốc ngữ chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp nhiều lần so với số văn bản chữ Nho của toàn bộ lịch sử nước ta trước đó.” (Giáp Văn Dương)

*Điều này lẽ ra phải ghi nhận cho tính chất dễ sử dụng, dễ truyền bá của chữ quốc ngữ hơn là ý thức thoát Trung của người Việt.

+ “Cũng chính nhờ chữ quốc ngữ mà về mặt hình thức, ngôn ngữ của chúng ta đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiếng Hán. Tỷ như đến giờ phút này, nước Việt ta vẫn dùng chữ Nho để viết và giao tiếp với thế giới, thì đối với họ, ta có khác nào một quận huyện của Trung Quốc ? Ta sẽ gặp khó trong việc thuyết phục họ rằng, ta là một quốc gia độc lập, có ngôn ngữ và văn hóa riêng.” (Giáp Văn Dương)

*Nhật bản và Hàn quốc, thậm chí Đài Loan cũng vẫn sử dụng chữ viết tương tự hay đúng như của Trung Quốc nhưng đâu có trở thành quận huyện của Trung Quốc và họ cũng đâu có gặp khó khăn trong việc xác định sự độc lập với Trung Quốc vì vấn đề chữ viết hay văn hóa có nhiều điểm giống Trung Quốc.

+ “Tên gọi của nước ta cũng không phải là một sự ngẫu nhiên. Đằng sau mỗi cái tên đều là một lời nhắn nhủ hoặc một mong đợi sâu thẳm. Ông cha ta đã chọn hai chữ Việt Nam để đặt làm tên nước.” (Giáp Văn Dương)

*Tác giả đã quên mất cứ liệu lịch sử rằng thoạt kỳ thủy vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) đề nghị với vua triều Thanh của Trung Quốc cho nước ta lấy tên là Nam Việt. Nhưng vua Trung Quốc lúc đó vì sợ chữ Nam Việt gợi lại lịch sử trước đây nước Nam Việt (thời Triệu Đà) gồm cả đất Lưỡng Quảng nên chỉ chuẩn thuận cho tên nước ta là Việt Nam.

+ “Việt Nam có nghĩa là tiến về phương Nam. Điều này có nghĩa là gì? Chỉ có thể cắt nghĩa : Tiến về phương Nam để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người phương Bắc. Đó là di lệnh của tổ tiên cho các thế hệ con cháu người Việt Nam mình.” (Giáp Văn Dương)

*Đây lại là một suy diễn quá xa và liều lĩnh.

- Giáp Văn Dương nhận định: “ Nhưng điều không may cho chúng ta là nền văn hóa Trung Hoa có sức ảnh hưởng quá lớn. Nó như một đại nam châm hút các dân tộc xung quanh về phía mình. Nên dù luôn có ý thức vùng thoát khỏi ảnh hưởng của người Trung Quốc, dù đã được cha ông di lệnh kỹ càng, thì lịch sử của Việt Nam luôn là sự giằng xé giữa hai luồng vận động: Vùng thoát khỏi Trung Quốc và chầu về Trung Quốc.”

*Tác giả tiếp tục dường như quên mất Nhật Bản, Hàn Quốc, kể cả Bắc Triều Tiên và Đài Loan cũng là các “dân tộc xung quanh” nhưng gần như tất cả đã không chỉ “Thoát Trung” mà còn vượt hơn cả Trung. Tác giả có lẽ cũng đã quên mất một nửa nước Việt dưới vĩ tuyến 17 từ 1954-1975 đã hoàn toàn thoát khỏi Trung Quốc. Và tác giả dường như cố tình quên yếu tố Đảng Cộng sản Việt Nam/Hồ Chí Minh trong vấn đề phụ thuộc Trung Quốc của Bắc Việt Nam từ 1950-1975 và của toàn Việt Nam gần như toàn bộ giai đoạn tiếp theo từ 1975 đến nay.

- Trong phần 2, Giáp Văn Dương chủ yếu liệt kê và mô tả thực trạng đất nước Việt Nam hiện nay bị thâm nhập, lệ thuộc vào Trung Quốc ở hầu khắp các lĩnh vực (văn hóa, kinh tế, chính trị,…), cùng với thể hiện một cảm xúc chua xót, đau buồn là chính, hơn là phân tích để vạch ra nguyên nhân sâu xa và cơ bản của thực trạng đó. Ví dụ, tác giả viết: “Xin hỏi : Một dân tộc được định hình chính bởi cái gì ? Có phải là bởi đất đai, tài nguyên của dân tộc đó hay không ? Chắc hẳn là không. Người ta phân biệt dân tộc này với dân tộc khác bởi chính văn hóa của nó. Nay văn hóa của ta đang bị áp đảo mà dân ta lại vui vẻ cổ vũ chấp thuận, thì khác nào tay ta đã yếu, mắt ta đã chậm mà ta lại tự mua dây về bịt mắt trói tay mình ?”

*Có lẽ tác giả không nhận thấy hoặc không chỉ ra một nguyên nhân chính của thực trạng này chính là chính sách độc quyền về giáo dục, truyền thông của nhà nước hiện nay.

Hay Giáp Văn Dương nhận định chính xác rằng: “những thói hư tật xấu này đang tác oai tác quái làm suy đồi văn hóa và đạo đức của ta quá thể. Bệnh hình thức hư danh, tật khoe khoang thành tích, thói hành dân, nịnh trên lừa dưới, tệ chạy chức chạy quyền… đã thành phổ biến, nên không còn cách nào khác là phải dứt bỏ để học những giá trị tiến bộ của phương Tây như dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, thực học thực nghiệp… thì mới có thể tiến kịp người.”

*Nhưng lẽ ra tác giả cần phải đề cập thêm một vấn nạn nguy hiểm là đã có nhiều người đang cố gắng truyền bá, cổ xúy những tư tưởng, giá trị tiến bộ của phương Tây nhưng họ lại có nguy cơ rất cao bị nhà nước hiện nay kết tội là “thù địch”, “phản động”.

Tóm lại, bài viết “Thoát Trung Luận” của Giáp Văn Dương đã nêu ra một vấn đề lớn, quan trọng và thiết thực trong tình hình hiện nay nhưng lập luận của tác giả vẫn chưa thoát khỏi sự chủ quan thường có của những người có tinh thần yêu nước nồng nàn nhưng chủ yếu chỉ dựa trên tinh thần tự tôn dân tộc và chỉ đề cập vấn đề với một tình trạng nửa vời. Cổ xúy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc khi đất nước đang bị đe dọa xâm lăng là điều quí giá và cần thiết nhưng việc cổ xúy không dựa trên một tinh thần khách quan, duy lý, triệt để, thì sự cổ xúy đó vô hình chung lại duy trì hay tiếp tục tạo ra những lối mòn có hại cho một nền văn hóa vốn đã và đang bị ghìm giữ trong lối suy nghĩ cảm tính, thiên vị, cải lương – những đặc tính rất có lợi cho những kẻ cầm quyền mỵ dân, độc tài. Thiết nghĩ, nếu nhìn ở phạm vi ngay trước mắt thì Việt Nam cần phải xa rời Trung Quốc để hướng đến và thắt chặt với phương Tây, nhưng nếu nhìn ở phạm vi dài hạn thì vấn đề không phải là “Thoát Trung” hay không “Thoát Trung” mà vấn đề là đất nước phải có sự sáng suốt, tỉnh táo để nhận ra được cần phải du nhập cái gì, tránh cái gì hay cần phải đồng minh với quốc gia nào, giữ khoảng cách với quốc gia nào trong mọi quan hệ, các mối quan hệ không bao giờ thuần nhất và bất biến, với các quốc gia, dân tộc khác. Mà để có sự sáng suốt, tỉnh táo đó thì dân chúng và đặc biệt là giới trí thức phải có suy nghĩ độc lập, khoa học và có khả năng ảnh hưởng, tham gia vào các quyết định liên quan đến mọi vấn đề của quốc gia, xã hội. Khi đó mọi vấn đề “thoát” hay “nhập” với bất cứ cái gì không còn là vấn đề khó khăn, mông lung hay bế tắc nữa. Dĩ nhiên đây là vấn đề không hề nhỏ hay dễ dàng để một ý kiến có thể đạt được tính đầy đủ và thuyết phục cho mọi góc cạnh. Vì vậy những góp ý trên đây với tác giả Giáp Văn Dương cũng chỉ là một nỗ lực nhỏ nhoi với hy vọng cùng góp thêm vài suy nghĩ nhỏ cho một vấn đề lớn mà tác giả Giáp Văn Dương đã là người nêu rõ ra trong bối cảnh rối bời và nhiều phần rất lâm nguy của đất nước hiện nay.

Phạm Hồng Sơn
17/8/2011

Phụ lục:

Thoát Trung Luận
Giáp Văn Dương

Thời gian gần đây, khi thảo luận về những nguy cơ đối với nước ta trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, về lựa chọn mô hình phát triển cho Việt Nam, về tình hình tranh chấp Biển Đông…, một số người thuộc giới trí thức trong và ngoài nước, dù chưa chính thức, cũng đã ít nhiều đi đến một nhận định chung: Cần thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc!
Tuy nhiên, nhận định này chưa bao giờ được viết ra một cách mạch lạc, có hệ thống, và dường như chỉ mới dừng ở mức trực giác. Vì thế, một bài luận nhằm phân tích rõ ràng về nhận định quan trọng này là cần thiết.
*
* *
Tư tưởng thoát khỏi Trung Quốc thực ra không hề mới. Lịch sử nước ta có thể được diễn giải tương đối đầy đủ dưới góc nhìn thoát Trung. Phần lớn các cuộc khởi nghĩa, các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta đều mang trong mình một thông điệp nóng hổi: Thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Quốc!

Sự kiện dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa và giành lại được độc lập sau gần một nghìn năm Bắc thuộc là một sự kiện hy hữu trên thế giới. Đó là kết quả của một quá trình thoát Trung bền bỉ kiên trì. Sau khi giành được độc lập, quá trình này được tiếp nối không chỉ ở các cuộc kháng chiến vệ quốc, mà còn ở các nỗ lực giữ gìn ngôn ngữ, văn hóa ở các triều đại sau này.

Khi còn nhỏ, tôi đã từng ngạc nhiên khi đọc bài hịch của vua Quang Trung khích lệ tướng sĩ trước khi ra trận: “Đánh cho để dài tóc. Đánh cho để răng đen…”. Tôi đã tự hỏi, vì sao nhà Vua không chọn những biểu tượng lớn lao hơn mà lại chọn những điều nhỏ nhặt như vậy để động viên quân sĩ? Nhưng càng ngày tôi càng thấm thía: Đó là lòng kiên định của tổ tiên nhằm thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nền văn hóa Trung Hoa, ngay từ những việc nhỏ nhất.

Ý thức vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này là thường trực. Tuy nhiều lúc bị chao đảo bởi sự tấn công mạnh mẽ đến từ phương Bắc, nhưng mỗi khi cần đến thì ý thức vùng thoát này lại bùng lên dữ dội. Nỗ lực xây dựng chữ viết riêng cho dân tộc như chữ Nôm của cha ông, và gần đây nhất là việc toàn dân đồng loạt chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, là minh chứng rõ ràng cho sự vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này.

Riêng với việc chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, có thể nói, đây là một cuộc thoát Trung ngoạn mục. Thành quả của nó thật đáng nể: Số người biết đọc biết viết tăng lên gấp bội, số lượng văn bản sử dụng chữ quốc ngữ chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp nhiều lần so với số văn bản chữ Nho của toàn bộ lịch sử nước ta trước đó. Cũng chính nhờ chữ quốc ngữ mà về mặt hình thức, ngôn ngữ của chúng ta đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiếng Hán. Tỷ như đến giờ phút này, nước Việt ta vẫn dùng chữ Nho để viết và giao tiếp với thế giới, thì đối với họ, ta có khác nào một quận huyện của Trung Quốc? Ta sẽ gặp khó trong việc thuyết phục họ rằng, ta là một quốc gia độc lập, có ngôn ngữ và văn hóa riêng.

Tên gọi của nước ta cũng không phải là một sự ngẫu nhiên. Đằng sau mỗi cái tên đều là một lời nhắn nhủ hoặc một mong đợi sâu thẳm. Ông cha ta đã chọn hai chữ Việt Nam để đặt làm tên nước. Việt Nam có nghĩa là tiến về phương Nam. Điều này có nghĩa là gì? Chỉ có thể cắt nghĩa: Tiến về phương Nam để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người phương Bắc. Đó là di lệnh của tổ tiên cho các thế hệ con cháu người Việt Nam mình.

Như thế, tổ tiên chúng ta bằng kinh nghiệm và trực giác, thông qua cách chọn tên nước, đã di lệnh cho con cháu: Muốn tồn tại thì phải tiến về phương Nam, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người phương Bắc. Lịch sử mở nước của chúng ta trong thời cận đại có thể được hiểu là gì khác hơn việc thực hiện di lệnh của tổ tiên mình?

Nhưng điều không may cho chúng ta là nền văn hóa Trung Hoa có sức ảnh hưởng quá lớn. Nó như một đại nam châm hút các dân tộc xung quanh về phía mình. Nên dù luôn có ý thức vùng thoát khỏi ảnh hưởng của người Trung Quốc, dù đã được cha ông di lệnh kỹ càng, thì lịch sử của Việt Nam luôn là sự giằng xé giữa hai luồng vận động: Vùng thoát khỏi Trung Quốc và chầu về Trung Quốc.
Sở dĩ có sự giằng xé này là vì, trong suốt thời phong kiến, do sự hạn chế của phương tiện giao thông, thế giới bên ngoài đối với nước ta dường như chỉ có một mình Trung Quốc. Khi người của ta chưa đủ đông, kinh tế của ta chưa đủ mạnh, văn hóa của ta chưa đủ trưởng thành, thì việc chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cũng là điều dễ hiểu.

Nhưng ngày nay, thời thế đã đổi thay. Một em bé sinh ra ở một vùng quê hẻo lánh cũng có đủ thông tin để biết rằng, thế giới không chỉ có một mình Trung Quốc. Thế giới còn có nhiều nền văn hóa khác, mang nhiều giá trị tiến bộ hơn, đáng học hỏi hơn nền văn hóa Trung Hoa, đến mức bản thân người Trung Quốc cũng phải mau mau thay đổi để học hỏi những điều tiến bộ này. Trên thực tế, những vùng nào của Trung Quốc gỡ bỏ được một phần văn hóa Trung Hoa truyền thống để du nhập các giá trị văn hóa phương Tây như các Hồng Kông, Đài Loan… thì đều phát triển vượt bậc so với những phần còn lại của Trung Quốc lục địa.

Nhiều nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore cũng đã tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa thành công và trở thành những con rồng con hổ châu Á mới. Họ không chỉ giữ được độc lập, mà còn tiến nhanh thành một nước phát triển, được thế giới kính nể trọng vọng.

Hãy lấy trường hợp Nhật Bản làm ví dụ: Bằng cách thực hiện cuộc thoát Á nhập Âu từ nửa sau của thế kỷ 19, Nhật Bản đã tránh được ách nô lệ thực dân và phát triển thành cường quốc chỉ sau một thời gian ngắn. Thoát Á với Nhật Bản thời gian đó là gì, nếu không phải là thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa? Vì vậy có thể nói, chìa khóa để Nhật Bản phát triển thành công là thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Vậy thì tại sao chúng ta lại không làm như họ? Tại sao ta lại không vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Quốc để phát triển, khi gương thành công đã bày ra trước mắt cả trăm năm, khi di lệnh của tổ tiên vẫn còn bên tai văng vẳng?

Câu trả lời chỉ có thể là: Tư tưởng chầu về Trung Quốc đã trở thành một quán tính tâm lý, một vô thức xã hội hay một phản xạ có điều kiện. Tư tưởng này đã ăn sâu vào đời sống ở nhiều dạng nhiều mặt nên khó lòng dứt bỏ được. Với người dân thì đó là sự tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách vô tư hào hứng qua phim ảnh, sách báo… đến mức trẻ em thuộc sử Tàu hơn sử Ta, quen với đồ chơi Tàu hơn đồ chơi Ta. Thương nhân ta thì chỉ chăm chắm nhập hàng Trung Quốc giá rẻ về bán cho dân, dù biết là hàng kém và có nhiều độc hại. Ở mức quốc gia thì đó là sự ràng buộc đến mức vô lý về ý thức hệ vào người Trung Quốc, dẫn đến thua thiệt và bất bình đẳng trong bang giao quốc tế.

Những việc này đều diễn ra một cách trơn tru tự động, đến mức không mấy ai tự hỏi: Vì sao mọi chuyện lại quá dễ dàng như vậy? Câu trả lời hẳn nhiên là tư tưởng chầu về Trung Quốc đã bén rễ sâu trong tiềm thức của xã hội ta như một chất gây nghiện, tuy độc hại nhưng rất khó từ bỏ. Vì nếu từ bỏ thì sẽ gây ra đau đớn và chống chếnh phần nào. Nhưng từ xưa đến nay, có chất gây nghiện nào có lợi?

Trong hoàn cảnh đó, chỉ còn một cách duy nhất là quán chiếu để nhìn sâu hiểu kỹ tác hại của việc chầu về Trung Quốc, để thấy được mối nguy lâu dài của nó đối với đất nước thì may ra mới có thể dứt bỏ được.

Trước hết là về văn hóa: Có so sánh ra bên ngoài mới thấy, bản sắc văn hóa của ta quá đỗi mong manh. Lý do chính là văn hóa của ta đã bị áp đảo bởi văn hóa Trung Hoa trong suốt nhiều thế kỷ, nay càng bị áp đảo mạnh hơn bởi tiến bộ của phương tiện truyền thông. Nhiều người khi còn sống thì một chữ tượng hình bẻ đôi không biết, nhưng khi chết thì lại được cúng tế bằng các bài văn khấn chữ Nho. Chuông, khánh trong chùa dù mới đúc, cũng hết thảy được khắc bằng thứ chữ của người Hán dù chẳng ai đọc được. Truyền thanh truyền hình, tuy sống bằng tiền thuế của dân Việt Nam ta, lại ngày đêm truyền bá văn hóa Trung Hoa đến tận hang cùng ngõ hẻm. Thời sự hơn nữa thì phim về tổ tông được quay bên Trung Quốc, Vạn Lý Trường Thành được mang về Đà Lạt… Ôi thôi, biết bao nhiêu mà kể!

Xin hỏi: Một dân tộc được định hình chính bởi cái gì? Có phải là bởi đất đai, tài nguyên của dân tộc đó hay không? Chắc hẳn là không. Người ta phân biệt dân tộc này với dân tộc khác bởi chính văn hóa của nó. Nay văn hóa của ta đang bị áp đảo mà dân ta lại vui vẻ cổ vũ chấp thuận, thì khác nào tay ta đã yếu, mắt ta đã chậm mà ta lại tự mua dây về bịt mắt trói tay mình?

Chính do sự áp đảo của văn hóa Trung Hoa nên những thói hư tật xấu của họ đã tìm được đất sống và tác oai tác quái ở ta. Nạn chuộng bằng cấp hư danh, tệ mua quan bán chức, thói tầm chương trích cú, ếch ngồi đáy giếng, ngông nghênh coi thường chân lý, bệnh phụ mẫu quan phương, chính trị thống soái …– những đặc trưng của văn hóa hủ nho Trung Quốc không hề giảm đi trên đất Việt Nam ta mà ngược lại, như rồng gặp nước, múa may phát triển tràn lan, biến hóa gây hại không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao vậy? Vì không sáng tạo ra chỉ học đòi bắt chước, nên nhiều người mang lòng kính sợ, nhất nhất tuân theo không dám đổi thay, nên chỉ nhăm nhắm chầu về, nghiêm cẩn như học trò đối với ông thầy.

Nay những thói hư tật xấu này đang tác oai tác quái làm suy đồi văn hóa và đạo đức của ta quá thể. Bệnh hình thức hư danh, tật khoe khoang thành tích, thói hành dân, nịnh trên lừa dưới, tệ chạy chức chạy quyền… đã thành phổ biến , nên không còn cách nào khác là phải dứt bỏ để học những giá trị tiến bộ của phương Tây như dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, thực học thực nghiệp… thì mới có thể tiến kịp người.

Ta phải tự gỡ bỏ tấm khăn đang bịt mắt ta ra, phải vứt bỏ sợi dây đang trói buộc mình thì bàn tay khối óc mới được giải phóng, hoa thơm trái ngọt của sự sáng tạo mới được thành tựu. Còn như chỉ mê muội sùng kính những thứ người ta đã phải bỏ đi, thì mãi lếch thếch lôi thôi cũng là điều tất yếu!

Thứ hai là về kinh tế: Việt Nam ta đang bị áp đảo trong thương mại đối với người Trung Quốc. Nhập siêu từ họ lên đến 90% so với tổng nhập siêu của cả nước ta. Trong khi đó, xuất khẩu từ ta sang họ chỉ chiếm một phần rất nhỏ, lại chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng nông sản, là những thứ mà giá trị chẳng được bao nhiêu. Vậy có thể nói, về kinh tế, chúng ta đang phụ thuộc vào họ một cách nặng nề. Nền kinh tế của ta đang ở mức chông chênh, có thể sụp đổ khi họ chủ tâm đóng cửa.

Nhưng điều đáng lo hơn cả là những người có thẩm quyền lại không thấy sự bất thường này. Những dự án lớn hầu hết đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc. Tỷ như, 90% các dự án tổng thầu gần đây đã rơi vào tay họ. Chất lượng của những công trình này rất kém, vì một lẽ giản đơn: Trình độ về công nghệ của họ còn thấp, việc tôn trọng môi trường và văn hóa bản địa họ chẳng quan tâm. Hàng hóa xuất phát từ Trung Quốc luôn bị thế giới cảnh báo là độc hại và kém chất lượng. Chính họ đã gây ra nhiều vấn nạn về văn hóa và môi trường trong nước họ. Vậy thử hỏi, vẫn những con người đó sang nước ta thì làm sao có thể làm tốt cho được?

Đáng tiếc thay, tư duy chộp giật, “sống chết mặc bay tiền thày bỏ túi” của nhiều người có trách nhiệm đã dung túng tình trạng này, gây hại lâu dài cho nền kinh tế. Việc này ta phải trách ta trước hết, vì nếu ta không tiếp tay thì làm sao họ có thể tác oai tác quái. Tiếp tay cho họ hại mình, thời buổi cạnh tranh, hỏi có khác nào mua dây để tự trói chân mình. Mà đã mua dây để tự trói chân mình thì làm sao có thể đi nhanh đi xa cho được?

Chính vì thế, bên cạnh việc vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa về văn hóa, chúng ta cần tìm cách thoát khỏi vòng kiềm tỏa về kinh tế. Nhà nước cần có chính sách giảm thiểu nhập siêu từ Trung Quốc, khuyến khích người trong nước sản xuất kinh doanh. Người Việt phải xây dựng được một nền kinh tế độc lập so với người Trung Quốc, phải mở được những lối đi riêng, tạo dựng được những mô hình phát triển khác hẳn so với họ. Phải phấn đấu trở thành hội điểm đầu tư và thương mại toàn cầu. Việc này nói thì dễ mà làm thì rất khó. Nhưng không vì thế mà không gắng sức, vì tương lai dân tộc phụ thuộc phần nhiều vào chính chỗ này.
Thứ ba là về chính trị: Nước ta đang có một sự ràng buộc kỳ quặc về ý thức hệ đối với người phương Bắc. Họ làm gì thì sớm muộn ta cũng làm theo như bị thôi miên. Rất nhiều khổ đau trong lịch sử của ta đã có nguồn gốc từ việc làm theo như họ.

Dân ta khác, phong hóa của ta khác, đất đai vị thế của ta khác, vậy hà cớ gì ta phải dập khuôn theo? Đành rằng, trước đây ta chỉ biết đến Trung Hoa nên triều chính phải rập khuôn bắt chước, tuy đáng trách những có thể cảm thông. Nhưng nay thế thời đã đổi, thế giới đã mở rộng muôn phương, mà sao ta vẫn nhăm nhắm hướng về phương Bắc? Bao phen cửa nát nhà tan, bị đè đầu cưỡi cổ, mà sao vẫn chưa hết tỉnh hết mê? Lẽ nào, luồng tư tưởng chầu về Trung Quốc, tưởng chừng sẽ nhạt đi khi thế giới được mở rộng ra, lại một lần nữa giở trò mánh khóe kéo chìm ta xuống đáy?

Vì sao vậy? Vì đâu vậy? Vì sự u mê đã đến mức thâm căn cố đế, hay vì đặc quyền đặc lợi của một nhóm người? Di lệnh của tổ tiên và những bài học lịch sử vì sao không còn tác dụng? Dù câu trả lời là thế nào đi chăng nữa thì trên thực tế, sự ràng buộc kỳ quặc về ý thức hệ này đã gây ra nhiều thua thiệt cho ta trong quốc tế bang giao, làm mất đi nhiều cơ hội làm ăn của ta với thế giới bên ngoài. Người ngã xuống vì biên cương hải đảo ta cũng chẳng dám vinh danh… Hỡi ôi!
Thời thế đã đổi thay. Thế giới ngày nay không chỉ có một mình Trung Quốc. Đoàn thuyền ra khơi phần đông đều đi theo một hướng, vậy lẽ gì ta phải tách nhóm đi riêng với kẻ vẫn bắt nạt mình? Sợi dây trói tay trói chân gỡ ra còn chưa được, vậy cớ gì ta lại mua dây để tròng đầu tròng cổ ta thêm?

Và cuối cùng là chủ quyền bị đe dọa: Khi chân tay ta bị trói, đầu cổ ta cũng chẳng được tự do, mắt ta cũng bị buộc nhìn về một hướng, thì thân thể ta làm sao mà vẹn toàn tự chủ? Sự trỗi dậy của người Trung Quốc tất yếu dẫn đến việc họ mở rộng biên giới quốc gia. Tranh chấp với xung quanh là điều khó tránh khỏi. Điều này họ đã công khai thừa nhận. Biển Đông đã nổi sóng. Giờ việc ta cần làm là hãy nhanh nhanh tự cởi trói cho mình, làm cho ta hùng mạnh thêm lên thì mới có thể giữ được vẹn toàn cương thổ.

Khi lực ta còn yếu thì mắt ta phải nhìn xa trông rộng, phải tìm cách kết thân với những kẻ có thế có quyền, có cùng lợi ích cùng mối lo âu để đồng tâm đối phó. Muốn vậy ta phải thiện chí thành tâm, đặt lợi ích quốc gia lên trên những tính toan nhỏ nhặt. Tình thế đã trở nên nguy ngập. Nước Việt ta đang đứng trước một lựa chọn lịch sử: Thoát Trung để phát triển hay cam tâm làm nô lệ một lần nữa?
Là người Việt, không ai muốn trở thành nô lệ ở bất cứ dạng nào. Điều này có nghĩa, lựa chọn duy nhất là vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người Trung Quốc để phát triển.

Vậy thì, hãy làm một cuộc thoát Trung toàn diện để hội nhập cùng thế giới và kiến tạo một kỷ nguyên phát triển mới!
Hãy tỉnh cơn mê, dứt cơn mộng mị! Hãy từ bỏ chất gây nghiện chầu về Trung Quốc! Hãy cởi bỏ tấm khăn bịt mắt! Hãy vứt sợi dây đang trói tay, trói chân, tròng cổ, tròng đầu!
Hãy trở về với di lệnh của tổ tiên: Thoát Trung hay là chết!

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2011

“Xương máu đồng bào”


Người ta ai cũng là da thịt,
Con dân một nước người nào chả là đồng bào?

Thế mà, ác nghiệt thay: công thần dám tỏ lòng trung với nước lại bị đe nẹt, lao tù. Em gái nhỏ chỉ ngồi nhà xiển dương lòng yêu nước cũng bị đày vào lao ngục. Kẻ sĩ dấn thân bảo vệ công lý, phản đối quân xâm lược, góp sức hòa giải, hòa hợp dân tộc cũng bị sách nhiễu, vu tội, cầm tù.

Máu xương đồng bào nào chảy chả làm đồng bào nào phải ngậm ngùi, thương xót?

Thế mà, ghê gớm thay: tượng đài vong hồn, oan hồn của đồng bào ở tận nơi xa xứ cũng bị rình rập, san phẳng. Vong hồn tử sĩ quyết chiến bảo vệ biển đảo quê hương vẫn không được ghi nhận. Di tích máu xương hiển hách chống Bắc triều xâm lược ở rừng sâu, núi thẳm cũng bị tẩy xóa, che lấp, đục bỏ.

Đồng bào nào chả căm phẫn khi Bắc triều bách hại đồng bào, xâm phạm lãnh thổ, sỉ nhục quốc thể?

Thế mà, ngạo ngược thay: dám gọi bô lão phản đối Bắc triều xâm lược là “phản động”. Dám che cho cả bàn chân đã đạp thẳng vào mặt người yêu nước. Coi khinh cả lớp nhân sĩ đã chán đời nô lệ. Sỷ nhục cả truyền thống 4000 năm không khuất phục.

Nhưng người xưa đã nói “nhật nguyệt mờ rồi lại sáng”. Người có lỗi vẫn có thể hối. Kẻ mắc tội vẫn còn đường cải.

Hãy để cho đồng bào nói những gì đồng bào muốn nói. Hãy đảm bảo an toàn cho đồng bào được thể hiện những vui buồn, yêu ghét của đồng bào trong ôn hòa. Hãy thôi dùng “đồng bào” cho những toan tính riêng tư, đảng phái. Hãy tôn trọng pháp luật. Đó mới là bắt đầu biết nghĩ đến “xương máu đồng bào”.

Phạm Hồng Sơn
13/08/2011

Nỗi e ngại nguy hiểm


(Nhân việc Luật sư Trần Đình Triển bị đe dọa tính mạng)
Cách đây một hôm, một anh bạn tôi có tâm sự nỗi băn khoăn của anh ấy là anh ấy muốn gọi điện thoại tới Luật sư Trần Đình Triển để hỏi thăm và chia sẻ sự cảm kích và lo lắng cho Luật sư Trần Đình Triển sau sự cố ngày 8/8/2011 khi Luật sư bị sách nhiễu, tấn công, đe dọa tính mạng, nhưng anh bạn tôi vẫn e ngại là anh ấy đã từng bị báo chí nhà nước kết tội là thành phần “phản động” đã từng bị “tòa án” kết án là “chống lại nhà nước CHXHCN Việt Nam” thì liệu chia sẻ như thế có lợi cho Luật sư Trần Đình Triển hay không? Sau một hồi trao đổi, chúng tôi cùng đi đến kết luận là về mặt đạo lý và luật pháp, đó là một việc hết sức cần thiết và đúng đắn nhưng chỉ có một điều chúng tôi vẫn còn đắn đo là bản thân Luật sư Trần Đình Triển có hoan nghênh sự chia sẻ đó không thôi? Nếu “không” thì anh bạn tôi không muốn gây thêm những rối bời, khó nghĩ cho Luật sư Trần Đình Triển trong lúc này.

Rồi lại có một người quen khác của tôi, chị ấy vẫn hoàn toàn chưa có vấn đề gì với chính quyền, thổ lộ với tôi về việc chị ấy hết sức bất bình khi biết chuyện Luật sư Trần Đình Triển bị sách nhiễu, đe dọa. Nhưng chị ấy nói không dám lên tiếng hay gọi điện hỏi thăm vì sợ “người ta” biết sẽ cho chị ấy là người có quan hệ với “thành phần xấu” thì sẽ khó khăn cho cuộc sống của chị ấy. Tôi không dám khuyên chị ấy cứ nên gọi điện hỏi thăm tới Luật sư Trần Đình Triển vì theo tâm lý học nếu người ta còn sợ hãi thì càng thúc đẩy người ta càng sợ và bản thân tôi cũng không thể đảm bảo được sau khi (nếu) chị ấy gọi điện thì không có rắc rối gì xảy ra. Nhưng tôi có hỏi lại chị ấy rằng: “Nếu ai thấy việc bất công đối với người khác cũng im lặng quay đi thì đến lượt mình bị bất công, ai sẽ lên tiếng cho mình?” Chị ấy không trả lời gì mà chỉ…cười.

Quay trở lại một chuyện nhỏ của riêng tôi. Tháng Ba năm 2010 cũng có một nhóm người tự xưng là “thương binh” đến “hỏi thăm” tôi tại nhà riêng. Sau đó tôi đã nhận được rất nhiều lời chia sẻ, động viên từ nhiều người chưa hề quen biết bao giờ, và nhiều người công khai cả các thông tin cá nhân. Trong đó ấn tượng nhất là có nhiều người là đảng viên cộng sản và có cả người đã có danh tiếng trong xã hội như nhà văn Phạm Đình Trọng. Đến bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy y nguyên sự xúc động, tri ân mỗi khi nhớ lại những cuộc điện thoại hỏi thăm đó. Qua chuyện trò tôi cũng nói lên sự e ngại của tôi đối với sự yên bình, an ninh của các cô bác, anh chị đó vì các cô bác, anh chị đó đang chia sẻ, động viên một người mà nhà nước đang coi là “phản động”. Nhưng hết sức bất ngờ, dường như tất cả những người đó cùng đáp lại sự e ngại của tôi với ý là: “Tôi không biết ai kết tội anh là “phản động”, nhưng việc vừa rồi xảy ra đối với anh là một việc phi pháp, bất công, nên tôi thấy cần phải lên tiếng phản đối những người chỉ đạo và thực hiện việc đó và chia sẻ với anh là nạn nhân mà thôi.” Nhưng nói đến niềm vui thì cũng không thể quên được nỗi buồn là trong số những người hỏi thăm tôi trong sự cố đó không có một vài người mà tôi vẫn từng cho là rất tốt.

Đúng là xã hội Việt Nam hiện nay ngày càng xảy ra nhiều hiện tượng cho thấy “cái ác” đang hoành hành ở khắp nơi và dường như đang thống trị toàn xã hội. Nhưng có lẽ điều nguy hiểm nhất hiện nay của xã hội Việt Nam không phải là sự lên ngôi của cái ác mà là sự e ngại, băn khoăn, tự tách rời, xa cách giữa người Việt Nam chúng ta – những người bị trị, trước cái ác[1]. Vì hàng nghìn năm qua, lịch sử loài người luôn nhắc rằng thủ đoạn chính của mọi kẻ áp bức bao giờ cũng là “chia rẽ”: “chia để trị” (divide and rule) hay “chia để thôn tính” (divide and conquer), dù là kẻ áp bức nội tộc hay ngoại bang.

Phạm Hồng Sơn
10/08/2011


[1] “trước cái ác”, cụm từ này thêm vào sau khi đã đăng tải trên các trang mạng.