Trong vài tuần qua, nhân dịp kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ, các giới chức ở Washington và Hà Nội cũng như nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng tán dương các thành quả của những nỗ lực xích lại gần nhau giữa hai nước cựu thù. Một số người, đặc biệt là giới doanh thương và các chuyên gia phát triển quốc tế, cho rằng những tiến triển tốt đẹp của mối bang giao này có ích cho nền kinh tế Việt Nam và do đó cũng có ích cho công cuộc vận động dân chủ hóa Việt Nam về lâu về dài.
Duy Ái - VOA | Washington D.C Thứ Năm, 22 tháng 7 2010
Ban Việt Ngữ VOA đã tiếp xúc với Bác sĩ Phạm Hồng Sơn ở Hà Nội, người từng bị cầm tù nhiều năm vì đã dịch và phổ biến trên internet bài viết “Thế nào là Dân chủ?” đăng trên website của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, và được ông cho biết một số ý kiến như sau.
VOA: Từ vị thế của một người tranh đấu cho dân chủ ViệtNam , ông đánh giá như thế nào về sự phát triển của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Theo tôi sự phát triển của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua có những điểm rất đáng mừng và cũng rất đáng tiếc. Đáng mừng phải kể trước tiên là nước ViệtNam thống nhất đã thiết lập quan hệ chính thức với quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Và đáng mừng thứ hai là, nhìn một cách toàn cục, mối quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua đã và đang phát triển theo chiều hướng mở rộng hơn và sâu sắc hơn, đã mang lại nhiều lợi ích và hiểu biết lẫn nhau cho cả hai quốc gia. Từ lúc ban đầu chỉ là các hợp tác có tính chất nhân đạo hoặc chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, kinh tế, đến nay quan hệ Việt-Mỹ đã phát triển sang hầu khắp mọi lĩnh vực khác như giáo dục, an ninh, quốc phòng, quân sự và chính trị,…Minh họa cho những phát triển tích cực này đã được nhiều người phân tích và đề cập.
Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến hai điều tôi cho là đáng tiếc nhất trong 15 năm qua của quan hệ Việt-Mỹ. Thứ nhất, mối bang giao Việt-Mỹ lẽ ra đã có thể bắt đầu trở lại sớm hơn và phát triển rộng và sâu sắc hơn nhiều. Mặc dù nhiều người cho rằng quan hệ Việt-Mỹ đã có sự phát triển nhanh, nhưng đó chỉ là so sánh với bản thân mối quan hệ Việt-Mỹ. Chúng ta sẽ thấy khác, nếu so sánh quan hệ Việt-Mỹ với quan hệ giữa Mỹ và các nước khác. Ví dụ, chỉ cần so sánh với Campuchia, một quốc gia láng giềng có bối cảnh chính trị khá tương tự với Việt Nam sau 1975 và vị thế địa chính trị kém quan trọng hơn Việt Nam, đã được bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ và được hưởng các qui chế thương mại với Hoa Kỳ sớm hơn Việt Nam và đến nay Campuchia đang có nhiều hợp tác với Hoa Kỳ sâu sắc hơn Việt Nam. Và khi nhìn xa hơn, quan hệ Nhật bản-Mỹ đã chỉ cần 7 năm để từ cựu thù trở thành những đồng minh chiến lược của nhau.
Thứ hai, khi quan hệ với một quốc gia văn minh như Hoa Kỳ, phía Việt Nam chưa chú trọng tới việc tiếp thu các giá trị (tinh thần) tiến bộ của Hoa Kỳ - những điều đã làm nên một Hoa Kỳ hùng mạnh, bền vững suốt hơn một thế kỷ qua. Cụ thể thì chính quyền Việt Nam cho tới nay mới chỉ chú ý khai thác các lợi thế về kinh tế, thương mại khi quan hệ với Hoa Kỳ và đa phần người dân chỉ bị hấp dẫn bởi một đặc điểm có tính bề ngoài là giàu có, thích hưởng thụ tiện nghi vật chất của xã hội Mỹ.
VOA: Ông có thể nói rõ thêm về các giá trị tiến bộ của Hoa Kỳ?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Các nhà khoa học về xã hội nhân văn đã nêu ra nhiều giá trị tiến bộ khác nhau trong xã hội Mỹ. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến 3 giá trị của xã hội Mỹ rất đáng tham khảo. Giá trị thứ nhất, giới tinh hoa của xã hội Mỹ gần như có một sự nhất trí tuyệt đối về quan niệm cho rằng bất kỳ sự tích tụ quyền lực công nào (vào tổ chức, đảng phái hay cá nhân) cũng dẫn đến độc tài, gây nguy hiểm cho quyền con người, sự toàn vẹn chủ quyền và sự giàu mạnh của quốc gia.
Do đó giới tinh hoa Mỹ và xã hội Mỹ từ thời kỳ lập quốc đến nay luôn nghiêng hẳn về việc ủng hộ và sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ nguyên tắc tam quyền phân lập trong hệ thống quyền lực công và sự cạnh tranh công khai để giành quyền được đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo đất nước. Giá trị thứ hai, xã hội Mỹ rất coi trọng và hết sức bảo vệ sự “bình đẳng cơ hội” (equality of opportunity) cho mọi công dân bất kể sắc tộc, giai tầng, nguồn gốc. Người Mỹ coi “bình đẳng về cơ hội” là nền tảng để quốc gia Mỹ có thể huy động được tối đa mọi tài năng và sức mạnh tiềm ẩn trong xã hội. Người Mỹ luôn sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ sự “bình đẳng cơ hội”.
Cho đến nay, có thể nói, bất kỳ người Mỹ nào, dù có nguồn gốc Á, Âu hay Phi, đều cảm thấy nực cười và không thể chấp nhận được khi có ai đó tự cho bản thân hay sắc tộc, đảng phái của mình có khả năng duy nhất để làm tốt một việc gì đó. Giá trị thứ ba là người Mỹ có tinh thần cởi mở, dung thứ và độ lượng rất cao. Người Mỹ có thể cạnh tranh, chỉ trích nhau rất quyết liệt (thậm chí đã từng đánh nhau dữ dội như hồi nội chiến 1861-1865) nhưng họ rất dễ dàng tha thứ cho nhau, thân thiện với nhau trở lại để cùng sống hòa bình hoặc để cùng phụng sự lợi ích công cộng.
VOA: Thưa ông, đâu là nguyên nhân của sự phát triển vừa đáng mừng vừa đáng tiếc trong quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua như ông vừa nêu?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Có rất nhiều nguyên nhân nếu nhìn ở các góc độ khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất, theo tôi, nằm trong động cơ nền tảng của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua. Như chúng ta thấy mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua không chỉ là mối bang giao giữa hai hệ thống chính quyền đã từng là cựu thù của nhau (tôi xin nhấn mạnh cựu thù giữa hai hệ thống chính quyền chứ không phải hai dân tộc như nhiều người ngộ nhận) mà còn là mối bang giao giữa một quốc gia có hệ thống chính trị thuộc loại dân chủ trưởng thành nhất thế giới với một quốc gia có nền chính trị độc đảng, phi dân chủ. Và chính vì sự trái ngược nhau giữa hai hệ thống chính trị, nên động cơ thiết lập mối bang giao từ hai quốc gia cũng có nền tảng hoàn toàn khác nhau. Đối với Hoa Kỳ, động cơ để thiết lập bang giao với Việt Nam được đặt trên nền tảng lợi ích tối cao của quốc gia Hoa Kỳ.
Còn đối với Việt Nam thì động cơ để thiết lập bang giao với Hoa Kỳ lại đặt trên nền tảng lợi ích tối cao của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS VN) trong nhu cầu giữ quyền lãnh đạo độc tôn trên toàn quốc gia Việt Nam. Do đó, từ tổng thể cho đến từng chi tiết, sự phát triển của mối bang giao Hoa Kỳ-ViệtNam trong 15 năm qua đều phát triển trong khuôn khổ qui định của hai động cơ nền tảng vừa kể.
Về phía Hoa Kỳ, mặc dù là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới và lại có hệ thống chính trị dân chủ nhưng cấp cao nhất trong hầu hết các chính phủ cầm quyền ở Hoa Kỳ, ngay từ sau 1975 cho đến nay, vẫn luôn sẵn sàng thiết lập hay mở rộng quan hệ với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, kể cả về văn hóa, an ninh, quân sự, chính trị vì điều đó hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ trong các vấn đề như mở rộng thị trường xuất khẩu, kiềm chế sự ảnh hưởng của Trung quốc, chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hạt nhân v.v tại vùng Đông Nam Á nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Trong khi đó về phía Việt Nam, sự phát triển của mối quan hệ với Hoa Kỳ lại thể hiện rõ sự khinh thường, thúc bách hay do dự xuất phát từ nhu cầu cầm quyền của ĐCS VN. Ví dụ cấp lãnh đạo cao nhất của ĐCS VN không chỉ khinh thường các tín hiệu muốn thiết lập bang giao với Việt Nam từ phía chính quyền Jimmy Carter vào năm 1977 mà còn không coi trọng những đề xuất sớm nối lại quan hệ với Hoa Kỳ từ những nhân vật cấp dưới trong ĐCS VN như cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Phải đến khi ĐCS VN bị mất các nguồn viện trợ từ khối Xã hội chủ nghĩa và buộc phải “cởi trói” kinh tế để tránh một đại khủng hoảng xã hội (vào nửa cuối thập niên 1980), ĐCS VN mới bắt đầu nhận ra sự cần thiết trong việc thiết lập bang giao với Hoa Kỳ, vì thiếu sự ủng hộ của Hoa Kỳ thì mục tiêu phát triển kinh tế để giữ vững “ổn định chính trị” của ĐCS VN sẽ rất khó khăn hoặc bất khả thi.
Tôi còn nhớ một chi tiết do một cựu quan chức của Tổng cục Hàng không Việt Nam cho biết là vào những năm đầu thập niên 1990 Tổng cục Hàng không Việt Nam không thể thuê hay mua thiết bị để nâng cấp máy bay chuyên cơ cho cấp lãnh đạo cao cấp của ĐCS VN chỉ vì các hãng cung cấp quốc tế không dám thực hiện do ngại lệnh cấm vận của Hoa Kỳ. Sự do dự của ĐCS VN sau khi đã thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ cũng thể hiện khá rõ. Ví dụ, chỉ sau khi Trung quốc, Campuchia đã được Hoa Kỳ trao qui chế PNTR (Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn) thì giới lãnh đạo của ĐCS VN mới đi đến thống nhất phải tăng tốc các cuộc đàm phàn và chấp nhận những đòi hỏi, yêu cầu của phía Hoa Kỳ trong các cuộc thương thảo để được hưởng qui chế PNTR (một điều kiện bắt buộc để được tham gia WTO).
Cho đến những năm gần đây, sự phát triển quan hệ với Hoa Kỳ cũng vẫn tiếp tục thể hiện rõ tính do dự, quan ngại cho lợi ích của ĐCS VN cao hơn lợi ích của nhân dân và quốc gia. Ví dụ, sự phát triển trong hợp tác về quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ thấy gia tăng, nhưng vẫn còn khá hình thức và cầm chừng, sau khi dư luận Việt Nam hết sức phẫn nộ trước các hành vi xâm phạm và đe dọa chủ quyền từ Trung quốc, trong khi Hoa Kỳ đã phát ra những thông điệp sẵn sàng hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Việt Nam. Hay việc ĐCS VN hiện nay rất muốn được Hoa Kỳ trao cho một qui chế ưu đãi về thương mại có tên GSP (Generalized System of Preferences) nhưng lại không muốn đáp ứng đòi hỏi về phía Hoa Kỳ là Việt Nam cần phải có các tổ chức công đoàn thực sự độc lập để bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam.
Bên cạnh đó, hệ thống báo chí và tuyên truyền của ĐCS VN vẫn bị lực lượng bảo thủ duy trì chính sách thông tin cắt xén, che giấu nhằm bóp méo hình ảnh nước Mỹ hay những tiến bộ trong mối quan hệ Việt-Mỹ, vẫn dùng lại cụm từ “Mỹ-Ngụy” gây cho nhận thức của dân chúng về Hoa Kỳ bị thiếu hụt, lệch lạc và thậm chí nghi kỵ, bài Mỹ. Trong khi đó ĐCS VN lại tỏ ra rất “độ lượng” với Trung quốc, không chỉ quên hẳn “bài học” tháng Hai năm 1979 mà còn tỏ ra thân ái, lễ độ trước những hành vi tàn ác, ngang ngược của Trung quốc vẫn đang tái diễn đối với ngư dân Việt Nam và chủ quyền Việt Nam trong nhiều năm qua.
Tóm lại, những điều đáng tiếc của quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua là do ĐCS VN chưa thoát được khỏi ý thức hệ Marx-Lenin và/hoặc vẫn đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích của toàn dân tộc. Tuy nhiên, mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua cũng đã giúp cho nhiều người dân và nhiều đảng viên Cộng sản nhận ra rằng những quan ngại, do dự hay né tránh của ĐCS VN khi quan hệ với Hoa Kỳ không chỉ đi ngược lại với nhu cầu phát triển bền vững và bảo toàn chủ quyền của Việt Nam mà còn làm cho uy tín cầm quyền của ĐCS VN ngày càng bị xói mòn thêm.
VOA: Ông nghĩ sao về nhận định cho rằng sự giao hảo giữa ViệtNam và Hoa Kỳ có lợi cho kinh tế Việt Nam và do đó cũng có lợi cho nỗ lực dân chủ hóa Việt Nam ?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Đúng là giữa phát triển kinh tế và dân chủ hóa có mối liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ đó không phải là mối liên hệ thuận chiều hay có tính nhân quả tất yếu, mặc dù chúng có thể tác động thúc đẩy lẫn nhau. Vì bản chất của kinh tế là nhằm gia tăng các giá trị vật chất (hữu hình) cho cá nhân và xã hội còn bản chất của dân chủ hóa là nhằm xây dựng các giá trị tiến bộ (vô hình) cho cá nhân và cộng đồng. Cũng giống như hai phần của một con người là thể xác (tương đương với kinh tế) và tinh thần (tương đương với dân chủ). Một thể xác luôn đói khát thì khó nói đến đạo đức hay những giá trị tinh thần cao đẹp. Nhưng một thể xác đầy đủ, béo tốt lại không thể đảm bảo để con người có một đời sống tinh thần lành mạnh, tử tế, thậm chí sự thừa thãi về vật chất còn làm con người trở nên bệnh tật về thể xác và bệnh hoạn về tinh thần. Tương tự, ô nhiễm môi trường, băng hoại đạo đức và tham nhũng tràn lan là ba đặc điểm luôn nổi bật trong các chế độ chỉ “cởi trói” về kinh tế nhưng vẫn độc đoán về chính trị.
Do đó, sẽ là sai lầm khi cho rằng sự phát triển trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tự nhiên mang lại thuận lợi cho dân chủ hóa Việt Nam, chưa kể đến việc tăng trưởng kinh tế trong môi trường phi dân chủ sẽ tạo điều kiện để các lực lượng cầm quyền độc đoán có thêm những nguồn lực mờ ám làm tăng sức mạnh cho bộ máy tuyên truyền và bộ máy đàn áp của chúng. Ngay như nước Mỹ vào thập niên 1960 (khi đó đã có mức sống kinh tế cao hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều) cũng vẫn phải có những nỗ lực vận động, đấu tranh, hy sinh để bảo vệ và hoàn thiện nền dân chủ Mỹ, nếu không, nước Mỹ chắc chưa thể có một tổng thống da màu và một xã hội vững mạnh như ngày hôm nay.
VOA: Trong cuộc họp báo hôm 29 tháng 6 ở Hà Nội, Đại sứ Hoa Kỳ Michael Michalak cho biết Washington “đã cấp các khoản tài trợ trị giá tổng cộng 350.000 đôla cho các tổ chức phi chính phủ Việt Nam để củng cố dân chủ, gia tăng sự tôn trọng dành cho xã hội dân sự và nền pháp quyền, và thúc đẩy nhân quyền và nữ quyền.” Ông nhận định như thế nào về nỗ lực của Hoa Kỳ trong lãnh vực này và ông muốn giới hữu trách ởWashington có những nỗ lực cụ thể nào để góp phần thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam ?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Việc chính quyền Hoa Kỳ trợ giúp tài chính cho các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam là một hướng đi đúng đắn và cần tăng cường hơn nữa vì một xã hội dân chủ không thể thiếu các tổ chức, hội đoàn dân sự độc lập hay “phi chính phủ”. Tuy nhiên, chúng ta nên hết sức lưu ý để các trợ giúp đến được đúng đích vì các tổ chức được hoạt động công khai và hợp pháp ở Việt Nam hiện nay rất khó giữ được tính “phi chính phủ” hoặc chúng chỉ là các “tổ chức phi chính phủ” trá hình còn thực chất vẫn là các tổ chức của chính phủ vì ĐCS VN hiện vẫn tìm mọi cách chi phối, kiểm soát mọi tổ chức, hội đoàn dân sự, không cho phép bất cứ một tổ chức quần chúng nào có tính độc lập, tự quản tồn tại.
Về mong muốn giới hữu trách tại Washington đối với tiến trình dân chủ hóa Việt Nam: thứ nhất, với tư cách là một người Việt Nam, tôi lại muốn tự đặt câu hỏi ngược lại là “Người Việt Nam chúng ta đã ý thức được tầm quan trọng và nỗ lực hết sức cho dân chủ hóa Việt Nam hay chưa?” vì mọi nỗ lực hay trợ giúp quốc tế đều trở nên vô nghĩa và thậm chí trở nên kỳ cục nếu bản thân người dân nước sở tại không dám đấu tranh và trả giá cho những tiến bộ xã hội.
Thứ hai, chúng ta phải hiểu các giới chức tạiWashington là những viên chức của một nhà nước dân chủ, nghĩa là trách nhiệm trước tiên của họ là phải phục vụ lợi ích cho nhân dân Mỹ. Do đó chúng ta không nên quá kỳ vọng, đòi hỏi hay quá bi quan, trách móc khi nhìn vào sự ủng hộ, trợ giúp từ giới hữu trách Washington . Nhưng chúng ta có thể tin tưởng rằng các giá trị văn minh như dân chủ, nhân quyền là các giá trị mà gần như bất kỳ người Mỹ nào cũng chia sẻ và ủng hộ.
Ngắn gọn lại, theo tôi, chỉ riêng việc giới hữu trách tạiWashington vẫn tiếp tục duy trì và cố gắng mở rộng phạm vi trong quan hệ Việt-Mỹ đã là một thuận lợi, trợ giúp quí giá cho tiến trình dân chủ hóa của Việt Nam rồi. Phần việc còn lại phải là của chúng ta-những con dân của nước Việt Nam .
VOA: Từ vị thế của một người tranh đấu cho dân chủ Việt
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Theo tôi sự phát triển của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua có những điểm rất đáng mừng và cũng rất đáng tiếc. Đáng mừng phải kể trước tiên là nước Việt
Ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến hai điều tôi cho là đáng tiếc nhất trong 15 năm qua của quan hệ Việt-Mỹ. Thứ nhất, mối bang giao Việt-Mỹ lẽ ra đã có thể bắt đầu trở lại sớm hơn và phát triển rộng và sâu sắc hơn nhiều. Mặc dù nhiều người cho rằng quan hệ Việt-Mỹ đã có sự phát triển nhanh, nhưng đó chỉ là so sánh với bản thân mối quan hệ Việt-Mỹ. Chúng ta sẽ thấy khác, nếu so sánh quan hệ Việt-Mỹ với quan hệ giữa Mỹ và các nước khác. Ví dụ, chỉ cần so sánh với Campuchia, một quốc gia láng giềng có bối cảnh chính trị khá tương tự với Việt Nam sau 1975 và vị thế địa chính trị kém quan trọng hơn Việt Nam, đã được bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ và được hưởng các qui chế thương mại với Hoa Kỳ sớm hơn Việt Nam và đến nay Campuchia đang có nhiều hợp tác với Hoa Kỳ sâu sắc hơn Việt Nam. Và khi nhìn xa hơn, quan hệ Nhật bản-Mỹ đã chỉ cần 7 năm để từ cựu thù trở thành những đồng minh chiến lược của nhau.
Thứ hai, khi quan hệ với một quốc gia văn minh như Hoa Kỳ, phía Việt Nam chưa chú trọng tới việc tiếp thu các giá trị (tinh thần) tiến bộ của Hoa Kỳ - những điều đã làm nên một Hoa Kỳ hùng mạnh, bền vững suốt hơn một thế kỷ qua. Cụ thể thì chính quyền Việt Nam cho tới nay mới chỉ chú ý khai thác các lợi thế về kinh tế, thương mại khi quan hệ với Hoa Kỳ và đa phần người dân chỉ bị hấp dẫn bởi một đặc điểm có tính bề ngoài là giàu có, thích hưởng thụ tiện nghi vật chất của xã hội Mỹ.
VOA: Ông có thể nói rõ thêm về các giá trị tiến bộ của Hoa Kỳ?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Các nhà khoa học về xã hội nhân văn đã nêu ra nhiều giá trị tiến bộ khác nhau trong xã hội Mỹ. Ở đây tôi chỉ muốn nói đến 3 giá trị của xã hội Mỹ rất đáng tham khảo. Giá trị thứ nhất, giới tinh hoa của xã hội Mỹ gần như có một sự nhất trí tuyệt đối về quan niệm cho rằng bất kỳ sự tích tụ quyền lực công nào (vào tổ chức, đảng phái hay cá nhân) cũng dẫn đến độc tài, gây nguy hiểm cho quyền con người, sự toàn vẹn chủ quyền và sự giàu mạnh của quốc gia.
Do đó giới tinh hoa Mỹ và xã hội Mỹ từ thời kỳ lập quốc đến nay luôn nghiêng hẳn về việc ủng hộ và sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ nguyên tắc tam quyền phân lập trong hệ thống quyền lực công và sự cạnh tranh công khai để giành quyền được đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo đất nước. Giá trị thứ hai, xã hội Mỹ rất coi trọng và hết sức bảo vệ sự “bình đẳng cơ hội” (equality of opportunity) cho mọi công dân bất kể sắc tộc, giai tầng, nguồn gốc. Người Mỹ coi “bình đẳng về cơ hội” là nền tảng để quốc gia Mỹ có thể huy động được tối đa mọi tài năng và sức mạnh tiềm ẩn trong xã hội. Người Mỹ luôn sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ sự “bình đẳng cơ hội”.
Cho đến nay, có thể nói, bất kỳ người Mỹ nào, dù có nguồn gốc Á, Âu hay Phi, đều cảm thấy nực cười và không thể chấp nhận được khi có ai đó tự cho bản thân hay sắc tộc, đảng phái của mình có khả năng duy nhất để làm tốt một việc gì đó. Giá trị thứ ba là người Mỹ có tinh thần cởi mở, dung thứ và độ lượng rất cao. Người Mỹ có thể cạnh tranh, chỉ trích nhau rất quyết liệt (thậm chí đã từng đánh nhau dữ dội như hồi nội chiến 1861-1865) nhưng họ rất dễ dàng tha thứ cho nhau, thân thiện với nhau trở lại để cùng sống hòa bình hoặc để cùng phụng sự lợi ích công cộng.
VOA: Thưa ông, đâu là nguyên nhân của sự phát triển vừa đáng mừng vừa đáng tiếc trong quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua như ông vừa nêu?
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Có rất nhiều nguyên nhân nếu nhìn ở các góc độ khác nhau, nhưng nguyên nhân cơ bản nhất, theo tôi, nằm trong động cơ nền tảng của mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua. Như chúng ta thấy mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua không chỉ là mối bang giao giữa hai hệ thống chính quyền đã từng là cựu thù của nhau (tôi xin nhấn mạnh cựu thù giữa hai hệ thống chính quyền chứ không phải hai dân tộc như nhiều người ngộ nhận) mà còn là mối bang giao giữa một quốc gia có hệ thống chính trị thuộc loại dân chủ trưởng thành nhất thế giới với một quốc gia có nền chính trị độc đảng, phi dân chủ. Và chính vì sự trái ngược nhau giữa hai hệ thống chính trị, nên động cơ thiết lập mối bang giao từ hai quốc gia cũng có nền tảng hoàn toàn khác nhau. Đối với Hoa Kỳ, động cơ để thiết lập bang giao với Việt Nam được đặt trên nền tảng lợi ích tối cao của quốc gia Hoa Kỳ.
Còn đối với Việt Nam thì động cơ để thiết lập bang giao với Hoa Kỳ lại đặt trên nền tảng lợi ích tối cao của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS VN) trong nhu cầu giữ quyền lãnh đạo độc tôn trên toàn quốc gia Việt Nam. Do đó, từ tổng thể cho đến từng chi tiết, sự phát triển của mối bang giao Hoa Kỳ-Việt
Về phía Hoa Kỳ, mặc dù là quốc gia hùng mạnh nhất thế giới và lại có hệ thống chính trị dân chủ nhưng cấp cao nhất trong hầu hết các chính phủ cầm quyền ở Hoa Kỳ, ngay từ sau 1975 cho đến nay, vẫn luôn sẵn sàng thiết lập hay mở rộng quan hệ với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, kể cả về văn hóa, an ninh, quân sự, chính trị vì điều đó hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ trong các vấn đề như mở rộng thị trường xuất khẩu, kiềm chế sự ảnh hưởng của Trung quốc, chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hạt nhân v.v tại vùng Đông Nam Á nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Trong khi đó về phía Việt Nam, sự phát triển của mối quan hệ với Hoa Kỳ lại thể hiện rõ sự khinh thường, thúc bách hay do dự xuất phát từ nhu cầu cầm quyền của ĐCS VN. Ví dụ cấp lãnh đạo cao nhất của ĐCS VN không chỉ khinh thường các tín hiệu muốn thiết lập bang giao với Việt Nam từ phía chính quyền Jimmy Carter vào năm 1977 mà còn không coi trọng những đề xuất sớm nối lại quan hệ với Hoa Kỳ từ những nhân vật cấp dưới trong ĐCS VN như cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Phải đến khi ĐCS VN bị mất các nguồn viện trợ từ khối Xã hội chủ nghĩa và buộc phải “cởi trói” kinh tế để tránh một đại khủng hoảng xã hội (vào nửa cuối thập niên 1980), ĐCS VN mới bắt đầu nhận ra sự cần thiết trong việc thiết lập bang giao với Hoa Kỳ, vì thiếu sự ủng hộ của Hoa Kỳ thì mục tiêu phát triển kinh tế để giữ vững “ổn định chính trị” của ĐCS VN sẽ rất khó khăn hoặc bất khả thi.
Tôi còn nhớ một chi tiết do một cựu quan chức của Tổng cục Hàng không Việt Nam cho biết là vào những năm đầu thập niên 1990 Tổng cục Hàng không Việt Nam không thể thuê hay mua thiết bị để nâng cấp máy bay chuyên cơ cho cấp lãnh đạo cao cấp của ĐCS VN chỉ vì các hãng cung cấp quốc tế không dám thực hiện do ngại lệnh cấm vận của Hoa Kỳ. Sự do dự của ĐCS VN sau khi đã thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ cũng thể hiện khá rõ. Ví dụ, chỉ sau khi Trung quốc, Campuchia đã được Hoa Kỳ trao qui chế PNTR (Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn) thì giới lãnh đạo của ĐCS VN mới đi đến thống nhất phải tăng tốc các cuộc đàm phàn và chấp nhận những đòi hỏi, yêu cầu của phía Hoa Kỳ trong các cuộc thương thảo để được hưởng qui chế PNTR (một điều kiện bắt buộc để được tham gia WTO).
Cho đến những năm gần đây, sự phát triển quan hệ với Hoa Kỳ cũng vẫn tiếp tục thể hiện rõ tính do dự, quan ngại cho lợi ích của ĐCS VN cao hơn lợi ích của nhân dân và quốc gia. Ví dụ, sự phát triển trong hợp tác về quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ thấy gia tăng, nhưng vẫn còn khá hình thức và cầm chừng, sau khi dư luận Việt Nam hết sức phẫn nộ trước các hành vi xâm phạm và đe dọa chủ quyền từ Trung quốc, trong khi Hoa Kỳ đã phát ra những thông điệp sẵn sàng hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Việt Nam. Hay việc ĐCS VN hiện nay rất muốn được Hoa Kỳ trao cho một qui chế ưu đãi về thương mại có tên GSP (Generalized System of Preferences) nhưng lại không muốn đáp ứng đòi hỏi về phía Hoa Kỳ là Việt Nam cần phải có các tổ chức công đoàn thực sự độc lập để bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam.
Bên cạnh đó, hệ thống báo chí và tuyên truyền của ĐCS VN vẫn bị lực lượng bảo thủ duy trì chính sách thông tin cắt xén, che giấu nhằm bóp méo hình ảnh nước Mỹ hay những tiến bộ trong mối quan hệ Việt-Mỹ, vẫn dùng lại cụm từ “Mỹ-Ngụy” gây cho nhận thức của dân chúng về Hoa Kỳ bị thiếu hụt, lệch lạc và thậm chí nghi kỵ, bài Mỹ. Trong khi đó ĐCS VN lại tỏ ra rất “độ lượng” với Trung quốc, không chỉ quên hẳn “bài học” tháng Hai năm 1979 mà còn tỏ ra thân ái, lễ độ trước những hành vi tàn ác, ngang ngược của Trung quốc vẫn đang tái diễn đối với ngư dân Việt Nam và chủ quyền Việt Nam trong nhiều năm qua.
Tóm lại, những điều đáng tiếc của quan hệ Việt-Mỹ trong 15 năm qua là do ĐCS VN chưa thoát được khỏi ý thức hệ Marx-Lenin và/hoặc vẫn đặt lợi ích của đảng lên trên lợi ích của toàn dân tộc. Tuy nhiên, mối bang giao Việt-Mỹ trong 15 năm qua cũng đã giúp cho nhiều người dân và nhiều đảng viên Cộng sản nhận ra rằng những quan ngại, do dự hay né tránh của ĐCS VN khi quan hệ với Hoa Kỳ không chỉ đi ngược lại với nhu cầu phát triển bền vững và bảo toàn chủ quyền của Việt Nam mà còn làm cho uy tín cầm quyền của ĐCS VN ngày càng bị xói mòn thêm.
VOA: Ông nghĩ sao về nhận định cho rằng sự giao hảo giữa Việt
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Đúng là giữa phát triển kinh tế và dân chủ hóa có mối liên hệ với nhau, nhưng mối liên hệ đó không phải là mối liên hệ thuận chiều hay có tính nhân quả tất yếu, mặc dù chúng có thể tác động thúc đẩy lẫn nhau. Vì bản chất của kinh tế là nhằm gia tăng các giá trị vật chất (hữu hình) cho cá nhân và xã hội còn bản chất của dân chủ hóa là nhằm xây dựng các giá trị tiến bộ (vô hình) cho cá nhân và cộng đồng. Cũng giống như hai phần của một con người là thể xác (tương đương với kinh tế) và tinh thần (tương đương với dân chủ). Một thể xác luôn đói khát thì khó nói đến đạo đức hay những giá trị tinh thần cao đẹp. Nhưng một thể xác đầy đủ, béo tốt lại không thể đảm bảo để con người có một đời sống tinh thần lành mạnh, tử tế, thậm chí sự thừa thãi về vật chất còn làm con người trở nên bệnh tật về thể xác và bệnh hoạn về tinh thần. Tương tự, ô nhiễm môi trường, băng hoại đạo đức và tham nhũng tràn lan là ba đặc điểm luôn nổi bật trong các chế độ chỉ “cởi trói” về kinh tế nhưng vẫn độc đoán về chính trị.
Do đó, sẽ là sai lầm khi cho rằng sự phát triển trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tự nhiên mang lại thuận lợi cho dân chủ hóa Việt Nam, chưa kể đến việc tăng trưởng kinh tế trong môi trường phi dân chủ sẽ tạo điều kiện để các lực lượng cầm quyền độc đoán có thêm những nguồn lực mờ ám làm tăng sức mạnh cho bộ máy tuyên truyền và bộ máy đàn áp của chúng. Ngay như nước Mỹ vào thập niên 1960 (khi đó đã có mức sống kinh tế cao hơn Việt Nam hiện nay rất nhiều) cũng vẫn phải có những nỗ lực vận động, đấu tranh, hy sinh để bảo vệ và hoàn thiện nền dân chủ Mỹ, nếu không, nước Mỹ chắc chưa thể có một tổng thống da màu và một xã hội vững mạnh như ngày hôm nay.
VOA: Trong cuộc họp báo hôm 29 tháng 6 ở Hà Nội, Đại sứ Hoa Kỳ Michael Michalak cho biết Washington “đã cấp các khoản tài trợ trị giá tổng cộng 350.000 đôla cho các tổ chức phi chính phủ Việt Nam để củng cố dân chủ, gia tăng sự tôn trọng dành cho xã hội dân sự và nền pháp quyền, và thúc đẩy nhân quyền và nữ quyền.” Ông nhận định như thế nào về nỗ lực của Hoa Kỳ trong lãnh vực này và ông muốn giới hữu trách ở
Bác sĩ Phạm Hồng Sơn: Việc chính quyền Hoa Kỳ trợ giúp tài chính cho các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam là một hướng đi đúng đắn và cần tăng cường hơn nữa vì một xã hội dân chủ không thể thiếu các tổ chức, hội đoàn dân sự độc lập hay “phi chính phủ”. Tuy nhiên, chúng ta nên hết sức lưu ý để các trợ giúp đến được đúng đích vì các tổ chức được hoạt động công khai và hợp pháp ở Việt Nam hiện nay rất khó giữ được tính “phi chính phủ” hoặc chúng chỉ là các “tổ chức phi chính phủ” trá hình còn thực chất vẫn là các tổ chức của chính phủ vì ĐCS VN hiện vẫn tìm mọi cách chi phối, kiểm soát mọi tổ chức, hội đoàn dân sự, không cho phép bất cứ một tổ chức quần chúng nào có tính độc lập, tự quản tồn tại.
Về mong muốn giới hữu trách tại Washington đối với tiến trình dân chủ hóa Việt Nam: thứ nhất, với tư cách là một người Việt Nam, tôi lại muốn tự đặt câu hỏi ngược lại là “Người Việt Nam chúng ta đã ý thức được tầm quan trọng và nỗ lực hết sức cho dân chủ hóa Việt Nam hay chưa?” vì mọi nỗ lực hay trợ giúp quốc tế đều trở nên vô nghĩa và thậm chí trở nên kỳ cục nếu bản thân người dân nước sở tại không dám đấu tranh và trả giá cho những tiến bộ xã hội.
Thứ hai, chúng ta phải hiểu các giới chức tại
Ngắn gọn lại, theo tôi, chỉ riêng việc giới hữu trách tại
VOA: Xin cám ơn Bác sĩ Phạm Hồng Sơn đã dành cho Ban Việt ngữ cuộc phỏng vấn này.