Không kể bị nhiều dân Mỹ la
ó, biểu tình phản đối rầm rộ, Quyết định hành pháp (executive order), có tính
luật định, nhằm tạm đình chỉ ngay lập tức sự nhập cảnh các công dân từ bảy nước
có đa số theo Hồi giáo, của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã bị một thẩm phán và một tòa án vừa làm
cho vô hiệu. Nhưng Tổng thống Trump không hề nao núng, ông tweet
tức thời: “Hẹn các vị ở tòa án.” (See you in court.) Tóm tắt sơ lược
này có thể đã đủ cho thấy cấu trúc chính trị Mỹ không dễ hiểu, không hề đơn giản và không dễ để cho bất cứ cá nhân, phe đảng muốn thâu tóm, thoán đoạt quyền lực tuyệt đối,
triệt đi những tự do của người dân hay bán rẻ chủ quyền quốc gia. Đó chính
là tư tưởng căn bản của những người đã tham chính lập ra “Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”
(The United States of America) và đã được trình bày trên mặt báo cách đây
230 năm.
Để thấy được thêm phần nào
vốn tri thức vô cùng sâu rộng, tư duy chính trị hết sức sâu sắc và sự cẩn trọng
vô cùng trong việc Lập quốc của những con người đó, Như Cây
Tre Việt Nam trân trọng giới thiệu bản dịch của 3 trong số 85 bài Luận về
Chính quyền Liên bang (Federalist Papers) của những nhà lập quốc Mỹ. Đó là
các bài: Federalist 10, Federalist 51 và Federalist 39 (trích từ bản dịch trọn
vẹn).
FEDERALIST 10
Phạm Hồng Sơn dịch
Liên hiệp là giải pháp chống nạn bè phái và nổi
loạn (tiếp theo)
Từ
New York Packet
Thứ
Sáu, 23 tháng Mười một 1787*
James
Madison
Kính gửi Nhân Dân tiểu Bang New York:
Trong số nhiều ưu thế hứa hẹn từ một Liên hiệp
được xây dựng cẩn thận[1],
không ưu thế nào đáng được thiết kế cẩn thận hơn khuynh hướng dập tắt và kiểm
soát tính bạo động của nạn bè phái.
Bạn hữu của các chính thể bình dân[2]
cũng không bao giờ thấy lo lắng cho tương lai và khí chất của các chính thể này
bằng lúc chiêm nghiệm thiên hướng chúng thường sa vào cố tật nguy hiểm đó.
Do vậy, những người ủng hộ chính thể bình dân sẽ luôn
trân trọng mọi kế hoạch đưa ra được cách chữa trị đúng đắn cho cố tật này nhưng
không phạm vào các nguyên tắc máu thịt của họ.
Bất ổn, bất công và hỗn loạn xảy ra trong các cơ
quan công quyền[3] luôn thực sự là
các chứng bệnh hiểm nghèo làm chính quyền bình dân ở mọi nơi liên tiếp sụp đổ;
chúng cũng liên tục là những chủ đề hấp dẫn và màu mỡ cho các đối thủ của tự
do dựng ra những xảo ngôn bậc nhất.
Những cải tiến giá trị do các
bản hiến pháp của Mỹ[4]
mang đến cho các mô hình bình dân, cả cổ đại và hiện đại, chắc chắn không phải
đang được ngợi khen quá lời; nhưng sẽ là thiên vị không thể chấp nhận nếu cho
rằng chúng
đã thực sự loại đi được mối nguy đó như chúng ta mong muốn, trông đợi.
Các ta thán vẫn vang lên khắp nơi, từ những công
dân đức hạnh nhất, thận trọng nhất cho tới những bằng hữu của đức tin chung và
riêng, những thân hữu của tự do công cộng và cá nhân, tất cả đều cho rằng các
chính quyền của chúng ta quá bất ổn, rằng phúc lợi chung bị khinh rẻ trong các
xung đột bè đảng kình địch[5],
và rằng các vấn đề luôn luôn được giải quyết không theo nguyên tắc công lý, tôn
trọng quyền thiểu số, mà bằng sức mạnh vượt trội của một phe đa số tư lợi, áp
chế.
Dù chúng ta hết lòng cầu mong những ta thán đó là
vô căn cứ, các chứng cứ từ những sự kiện hiển hiện sẽ không cho phép chúng ta
phủ nhận rằng chúng có một phần sự thật. Quả thật, bằng con mắt ngay thẳng
nhìn lại hiện trạng, chúng ta sẽ phải thấy có một số vấn nạn đã bị qui nhầm
trách nhiệm cho sự vận hành của các chính quyền của chúng ta; nhưng đồng thời
chúng ta cũng sẽ thấy, các lý do khác không thể tự lĩnh hết trách nhiệm cho
những vấn nạn tồi tệ nhất; và, đặc biệt, cho sự bất tín đang dâng trùm lên các
hoạt động công quyền, và sự báo động cho các quyền cá nhân, tất cả đang ầm ầm tràn
lan khắp lục địa. Những vấn nạn đó chủ yếu, nếu không phải hoàn toàn, là hậu
quả của tính bất nhất và bất công do đầu óc bè phái lây nhiễm vào các cơ quan
công quyền của chúng ta.
James Madison (1751-1836) |
Một bè phái, theo tôi hiểu, là một số công dân,
dù đạt đa số hay thiểu số của toàn bộ, hợp lại với nhau, và do một hối thúc chung
nào đó, khát vọng hoặc quyền lợi, cùng hành động ngược quyền của các công dân
khác, hoặc trái các lợi ích lâu dài và toàn thể[6]
của cộng đồng.
Có hai phương pháp chữa trị các
nghịch thói của bè phái: một, loại bỏ các nguyên nhân sinh ra nó; hai, kiểm
soát các tác động của nó.
Để loại các nguyên nhân sinh ra
bè phái cũng có hai cách: một, phá bỏ tự do - cái cốt yếu cho bè phái tồn tại;
cách kia, làm cho mọi công dân luôn có cùng một quan điểm, cùng một đam mê và cùng các
lợi quyền giống hệt nhau.
Thật không có lời nào đúng hơn để nói về cách
chữa thứ nhất: thuốc chữa hiểm hơn căn bệnh. Tự do cho bè phái cũng như không
khí cho lửa, thiếu nó lửa phụt tắt. Nhưng xóa bỏ tự do, điều tối cần của đời
sống chính trị, vì nó nuôi dưỡng bè phái chẳng kém ngu hơn việc cầu cho hết
sạch khí trời, cái thiết yếu của đời sống động vật, vì nó dung dưỡng ngọn lửa
phá hoại.
Cách thứ hai lại thiếu tính khả thi như cách thứ
nhất thiếu sự khôn ngoan. Chừng nào lý trí con người còn sai lầm và chừng nào
con người còn tự do tư duy, các ý kiến khác nhau còn hiện diện. Chừng nào cầu
nối giữa lý trí và lòng tự ái[7] của con người
còn thông thương, nhãn quan và dục vọng của con người còn ảnh hưởng lẫn nhau;
và những cái trước sẽ còn bị những thứ sau đeo bám.
Sự đa dạng của năng lực con người, nguồn gốc sinh
ra các quyền của cải, là một ngáng trở không kém nan giải cho ý muốn đồng nhất
hóa mọi ham muốn, quan tâm. Bảo vệ những năng lực đó là nhiệm vụ đầu tiên của
chính quyền. Sự bảo vệ các năng lực khác nhau và không bằng nhau trong việc thủ
đắc của cải sẽ chắc chắn đưa ngay tới tình trạng sở hữu không giống nhau các
tài sản khác nhau; và từ tác động của các tình trạng này lên tình cảm, tầm nhìn
của các chủ sở hữu tương ứng sẽ đưa tới sự phân chia xã hội thành các nhóm
quyền lợi khác nhau, các phe đảng khác nhau.
Như vậy, những nguyên nhân tiềm tàng của bè phái
đã được cấy ngay trong bản thể con người; và chúng ta thấy chúng khắp nơi với
các mức hoạt động khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh khác nhau của xã hội công
dân[8].
Sự nhiệt thành với các quan niệm khác nhau về tôn
giáo, về chính thể, và về nhiều vấn đề khác, trong suy luận cũng như hành động;
sự gắn bó với các thủ lĩnh khác nhau cùng đua đấu quyết liệt vì danh tiếng và
quyền lực; hoặc với những người có các tố chất khuấy động lòng người khác
nhau, tất cả rốt cuộc đã chia loài người thành những phe đảng khác nhau, thổi
bùng lòng hằn thù lẫn nhau, và khiến họ dễ hục hặc, hiếp đáp nhau hơn rất
nhiều thay vì phải hòa hợp cùng nhau cho phúc lợi chung.
Thiên hướng thù địch giữa con
người mạnh tới mức nếu không có điều kiện đặc biệt, những khác biệt tầm phào,
cảm tính nhất cũng đủ khơi ra cừu địch và làm nổ ra các xung đột bạo liệt nhất[9]. Nhưng cội nguồn thông
thường, dai dẳng nhất của bè phái là sự phân phối bất bình đẳng, đa dạng về của
cải. Những người có và
những người không có của cải đã từ lâu là những nhóm lợi quyền khác hẳn
nhau trong xã hội. Những người là chủ nợ và những người là con nợ, cũng rơi vào
tình trạng phân rẽ tương tự.
Quyền lợi của chủ đất, quyền lợi của chủ máy,
quyền lợi của thương nhân, quyền lợi của nhà giàu, cùng với cơ man quyền lợi
nhỏ hơn khác, sẽ tất yếu hình thành trong các dân tộc văn minh và chia họ thành
các giai cấp khác nhau có hành động theo các nhận thức và nhãn quan khác nhau.
Điều chỉnh những quyền lợi, ham muốn vừa đa dạng vừa đụng chạm nhau như thế là
nhiệm vụ cơ bản của pháp luật hiện đại, và là sự can dự vào tinh thần phe
đảng, bè phái trong các hoạt động thông thường, thiết yếu của chính quyền.
Không ai được phép làm người phân xử trong chính
vụ việc của họ, vì quyền lợi của họ chắc chắn sẽ làm thiên lệch phán xét và,
không phải không thể, làm mục ruỗng đức liêm chính của họ. Tương tự, không, phải
là quan trọng hơn, một nhóm người không thể cùng lúc vừa là người phân xử vừa
là các bên tranh chấp; và biết bao các luật quan trọng nhất còn là gì khi quá
nhiều quyết định tư pháp thực tế chẳng lo gì cho quyền của những con người riêng
biệt mà lại lo cho quyền của các khối công dân to lớn? Các nhóm đại diện lập
pháp thuộc các giai tầng khác nhau còn ích gì khi họ chỉ là những cổ xướng
viên, những phe đảng vì những mục tiêu họ đã quyết? Một dự luật liên quan tới
nợ tư ư? Là vấn đề sẽ làm giới chủ nợ đứng về một bên và những con nợ dạt sang
bên kia. Công lý cần phải giữ cho được cân bằng giữa hai phía.
Tuy nhiên, các bên tranh chấp lại đang, và buộc
phải, là chính người phân xử; và phe đông đảo nhất, hay, nói cách khác là phe
mạnh nhất, chắc chắn sẽ áp đảo. Sản xuất nội địa phải chăng sẽ được khuyến
khích lên một mức bằng cách hạn chế các sản phẩm ngoại quốc là những vấn đề sẽ
có sự định đoạt khác nhau giữa giới chủ đất và giới công xưởng và rất có thể sẽ
chẳng có giới nào chỉ chú tâm cho công bình và phúc lợi công cộng.
Phân bổ sắc thuế trên các loại
tài sản khác nhau là hành động dường như cần phải có lòng công tâm cao nhất; và
dầu chưa có hành động lập pháp nào ẩn chứa cơ hội lớn hơn, khuyến khích hấp dẫn
hơn cho phe đa số đè bẹp các nguyên tắc công lý, thì mỗi đồng bạc phe đa số
đang bổ vào lưng phe thiểu số là một đồng tiết kiệm cho hầu bao của riêng họ.
Thật hão huyền khi cho rằng các chính trị gia
thông thái sẽ có khả năng điều chỉnh các quyền lợi đối kháng đó và làm cho tất
cả phải phục vụ phúc lợi công. Hơn nữa, các chính trị gia thông thái không phải
luôn luôn giữ được kiểm soát[10].
Nhiều khi, một sự điều chỉnh như thế cũng không thể làm được nếu không xét tới
các nguyện vọng âm thầm và xa xôi, những điều hiếm khi vượt qua được các quyền
lợi cấp thời của một phe đảng luôn bất chấp lợi quyền của người khác hoặc của
toàn xã hội[11].
Chúng ta buộc phải suy ra rằng các NGUYÊN NHÂN
GỐC RỄ của nạn bè phái là không thể loại bỏ, và cách chữa duy nhất chỉ nằm
trong việc kiểm soát các TÁC ĐỘNG của chúng mà thôi.
Khi một bè phái nhỏ hơn đa số,
cách chữa nằm ngay trong nguyên lý cộng hòa – cho phép đa số bác bỏ các quan điểm nguy
hại thông qua lá phiếu thường kỳ. Bè phái này có thể gây ách tắc chính quyền,
làm náo động xã hội nhưng không có khả năng thực thi và che giấu bạo hành dưới
các vỏ bọc Hiến pháp[12].
Nhưng khi một bè phái đạt đa số, dạng thức chính quyền bình dân lại cho nó khả
năng bất chấp cả phúc lợi công lẫn các quyền của các công dân khác để thực hiện
dục vọng thống trị.
Do đó, bảo đảm phúc lợi công và các quyền cá nhân
trước hiểm họa của loại bè phái vừa nói, đồng thời duy trì tinh thần, nền tảng
cho chính thể bình dân, là mục đích trọng tâm trong các cuộc tìm hiểu của chúng
ta. Tôi cũng muốn thêm rằng đó chính là điều kiện thiết yếu để loại chính thể
này có thể thoát khỏi nỗi hổ nhục nó đã phải gánh từ bao lâu, và để nó có thể
xứng đáng được nhân loại trân trọng, chấp nhận[13].
Làm cách nào đạt được mục đích này? Dĩ nhiên, chỉ
có thể bằng một trong hai cách. Hoặc phải ngăn không cho các thành viên của một
tập hợp đa số có cùng một say mê, cùng một mối lợi vào cùng một thời điểm, hoặc
cái đa số đã có cùng một mối lợi, một mối say mê như thế rồi phải bị tước đi
khả năng phối hợp và thực hiện các ý định trấn áp qua cách lợi dụng số lượng
hay hoàn cảnh địa phương của họ. Nếu dục vọng
lại gặp được cơ hội, chúng ta biết rõ rằng khi đó cả giáo huấn đạo đức lẫn
tôn giáo sẽ chẳng còn có thể trông cậy được gì. Các giáo huấn đó cũng chẳng
còn thấy chống nổi những phi lý, bạo hành của con người, và hiệu lực của chúng
còn suy giảm theo số người gắn kết cùng nhau, nghĩa là hiệu lực càng giảm khi
nhu cầu cần chúng càng lớn[14].
Từ cách nhìn này, chúng ta có thể kết luận rằng
một nền dân chủ thuần túy, với ý của tôi là một xã hội bao gồm một số ít công
dân và tất cả cùng hội lại để trực tiếp điều hành chính quyền[15],
không thể có cách chữa các nghịch thói của bè phái. Một tập hợp đa số ở nơi đó,
gần như là luôn luôn, có cùng một quan tâm, cùng một dục vọng; việc trao đổi, phối hợp lại được chính dạng thức
chính quyền đảm bảo; và, sẽ không có gì để ngăn chặn các xúi giục hiến thí phe
yếu, hoặc trừ bỏ một cá nhân ương nghạnh[16]. Do vậy, các nền dân chủ như
thế vẫn mãi là những thảm cảnh của rối loạn và đối đầu; chưa bao giờ thuận lợi
cho an ninh cá nhân và quyền sở hữu tài sản; thường sống thì ngắn ngủi mà chết
lại đau thương. Các thuyết gia bảo trợ loại chính quyền này đã sai lầm khi giả
định rằng bằng cách giản đơn hóa loài người xuống mức bình đẳng tuyệt đối trong
các quyền chính trị, con người sẽ đồng thời trở nên bình đẳng tuyệt hảo và trở
thành đồng nhất về sở hữu, quan điểm và dục vọng.
Một nền cộng hòa, với ý của tôi
là một chính quyền có áp dụng cơ chế đại diện, lại cho thấy một viễn cảnh khác
và hứa hẹn phương thuốc chúng ta đang tìm. Bây giờ xin hãy cùng xem những điểm
khác so với nền dân chủ thuần túy rồi chúng ta sẽ thấy rõ bản chất của phương
thuốc cùng tính hiệu quả do Liên hiệp chắc chắn mang lại.
Có hai khác biệt quan trọng giữa một nền dân chủ
và một nền cộng hòa: thứ nhất, nhóm người trong chính quyền, ở loại sau, là một
số ít công dân được bầu ra bởi toàn số công dân còn lại; thứ hai, số công dân
càng tăng, không gian (sphere) lãnh thổ càng lớn, loại chính thể sau càng phát
triển[17].
Hệ quả từ khác biệt thứ nhất là,
một mặt, nó cho phép tinh lọc và mở rộng các tầm nhìn của cộng đồng bằng cách
đưa chúng duyệt qua một nhóm công dân đã được tuyển có năng lực tốt nhất trong
việc xác định những lợi hại đích thực cho quốc gia, có lòng ái quốc và yêu
chuộng công lý khó có thể dám hy sinh các quyền lợi quốc gia cho những mưu tính
nhất thời hay phe đảng[18].
Bằng cách này, tiếng nói của công luận, được tỏ qua các đại diện của dân, sẽ
tương hợp hơn với phúc lợi công so với khi người dân tự thể hiện trong các cuộc
tập hợp cầu ý. Nhưng mặt khác, cách thức này cũng có thể đưa đến hệ quả trái
ngược. Những kẻ có tính khí bè phái, định kiến địa phương hoặc mưu đồ hắc ám,
có thể, bằng cách lừa phỉnh, hối lộ hoặc bằng mọi cách, trước hết đoạt được
phiếu bầu của dân sau quay ra phản lại các quyền lợi của dân[19].
Đến đây, câu hỏi đặt ra là: nước cộng hòa nhỏ hay lớn phù hợp hơn cho việc bầu
được những người canh giữ tốt nhất cho phúc lợi công? Câu trả lời đương nhiên
thuộc về nước cộng hòa lớn bởi hai luận cứ rõ ràng:
Trước tiên, cần phải thấy rằng nước cộng hòa dù
nhỏ đến đâu, các đại diện cũng phải đạt tới một số nhất định đủ chống được các
nhóm âm mưu gồm một số người; và dù lớn đến mấy, các đại diện cũng phải bị giới
hạn trong một số nào đó để tránh tình trạng nhiễu loạn vì quá nhiều.
Vậy số đại diện trong cả hai trường hợp đều không
tỷ lệ với số cử tri, và có tỷ lệ cao hơn ở nước cộng hòa nhỏ dẫn tới hệ quả là
nếu tỷ lệ những người đủ phẩm chất trên tổng dân số trong nước cộng hòa lớn
không ít hơn trong nước cộng hòa nhỏ thì ở nước cộng hòa lớn sẽ cho nhiều lựa
chọn hơn, và đưa tới xác suất chọn được người phù hợp sẽ lớn hơn.
Tiếp theo, vì mỗi vị đại diện trong nước cộng hòa
lớn sẽ được chọn bởi một số người nhiều hơn so với trong nước cộng hòa nhỏ, sẽ
khó khăn hơn cho các ứng viên bất tài tiến hành các mưu chước tồi bại thường có
trong bầu cử; và nếu đầu phiếu càng tự do thì càng nhiều khả năng cử tri châu
tụ (centre) vào những người có phẩm chất hấp dẫn nhất, có nhân cách tỏa sáng
(diffusive) và vững vàng nhất[20].
Nhưng, trong vấn đề này, như hầu hết các vấn đề
khác, chúng ta phải thừa nhận cả hai trường hợp đều có một tình trạng trung
dung chứa nhiều phiền toái. Khi tăng số lượng cử tri quá cao, quí vị sẽ làm cho
đại diện hiểu biết quá ít các vấn đề địa phương và các quyền lợi nhỏ. Khi giảm
số lượng cử tri quá thấp, quí vị làm đại diện gắn bó quá nhiều với các vấn đề
đó nhưng lại quá thiếu phẩm chất để hiểu và quan tâm tới các vấn đề quốc gia
lớn lao. Hiến pháp liên bang đang đưa ra một giải pháp tổng hợp tuyệt vời cho
vấn đề này: quyền lợi lớn và toàn thể được ký thác cho lập pháp quốc gia[21],
các quyền lợi địa phương và cá nhân giao cho các lập pháp tiểu Bang.
Một điểm khác nữa, chính thể cộng hòa có khả năng
tiếp nhận số công dân và chu vi (compass) lãnh thổ lớn hơn so với chính thể dân
chủ; và đây là yếu tố cơ bản khiến các câu kết bè phái ở chính thể trước ít đe
dọa hơn so với chính thể sau[22].
Xã hội càng nhỏ, càng ít khả năng hình thành nhiều phe đảng, quyền lợi khác
biệt; càng ít phe đảng và quyền lợi khác biệt, càng nhiều khả năng một đa số[23]
nằm ngay trong một đảng; và số người trong một phe đảng chiếm đa số càng nhỏ,
đồng thời lại nằm trong một chu vi cũng nhỏ thì càng dễ dàng cho phe đảng đa số
phối hợp, thực hiện các mưu đồ đàn áp. Hãy mở
rộng không gian, quí vị sẽ làm tăng các phe đảng, quyền lợi khác nhau; quí vị
sẽ làm giảm nguy cơ một đa số của xã hội có cùng ý muốn xâm phạm các quyền của
công dân khác; hoặc cả khi một ác ý như thế tồn tại, sẽ khó khăn hơn cho
bọn họ tập hợp sức mạnh, và hiệp đồng để ra tay[24].
Ngoài những kìm chế khác, có thể thấy ngay rằng ở
đâu có một ý đồ bất chính, bất thiện, sự trao đổi thông tin luôn bị ngăn trở
bởi sự hoài nghi tỷ lệ thuận với số người tối thiểu cần hiệp đồng.
Vậy, điều đã rõ ràng là lợi thế của nền cộng hòa
so với nền dân chủ trong việc kiểm soát các tác động của nạn bè phái cũng là
lợi thế của nước cộng hòa lớn so với nước nhỏ và cũng là lợi thế của Liên hiệp
so với các tiểu Bang thành viên.
Lợi thế đó có bao hàm chọn được những đại diện
sáng suốt và đức hạnh vượt được trên các định kiến vùng miền và các toan tính
bất chính? Không thể phủ nhận rằng cơ quan đại diện của Liên hiệp sẽ có khả
năng cao nhất đạt được các năng lực tối cần đó.
Lợi thế đó có bao gồm an ninh tốt hơn vì sự đa
dạng nhiều hơn về phe đảng sẽ chống lại bất cứ phe đảng nào có khả năng áp
đảo về số lượng và toan tính đàn áp số còn lại? Đương nhiên, sự đa dạng của phe
đảng trong Liên hiệp tăng sẽ làm an ninh tăng lên tương ứng.
Sau rốt, lợi thế đó có tạo được các rào chắn lớn
hơn để chặn một đa số bất chính, tư lợi có thể hiệp đồng, thực hiện các toan
tính bí mật? Ở đây, qui mô của Liên hiệp, một lần nữa, chứng tỏ đây là lợi thế
nổi bật nhất.
Lãnh tụ các bè phái có thể làm bùng lên một đám
cháy trong các tiểu Bang riêng của họ nhưng không có khả năng tràn lửa sang các
Bang khác. Một giáo phái có thể suy thoái thành một bè phái chính trị[25] trong một vùng Bang
liên (confederation)[26]; nhưng sự đa
dạng giáo phái trải rộng khắp bang liên sẽ đảm bảo để các hội đồng quốc gia đủ
sức chống được mọi mối nguy từ hiểm họa này.
Những thịnh nộ về tiền giấy[27], về xóa nợ[28], về phân phối
bình đẳng tài sản, hoặc về bất kỳ dự định sai trái, quỉ quyệt nào cũng ít có
khả năng lan tràn bao phủ toàn Liên hiệp so với một tiểu Bang thành viên; tương
tự, bất kỳ một tệ nạn nào như thế cũng dễ quấy đảo một vùng, một quận hơn là
toàn bộ tiểu Bang.
Do đó, với qui mô và một cấu trúc đúng đắn như
thế của Liên hiệp, chúng ta đang có trong tay một cách chữa trị cộng hòa cho
những chứng bệnh nguy hiểm nhất của chính thể cộng hòa. Và càng tự hào, vui
sướng bao nhiêu vì chúng ta là người cộng hòa, chúng ta càng cần nhiệt thành cổ
xướng tinh thần và ủng hộ lòng chính trực của những người Liên bang.
Publius
*
Trong năm (5)
nguồn người dịch tham khảo (nêu trong Lời giới thiệu) có hai nguồn (www.constitution.org;
bản dịch Pháp
văn Le Fédéraliste của Anne Amiel,
Paris Classiques Garnier, 2012.) ghi thời gian xuất bản bài này là 22 tháng
Mười một 1787. Nguồn oll.libertyfund.org như thường lệ không ghi thời gian xuất
bản. Hai nguồn còn lại đều ghi thời gian xuất bản là 23 tháng Mười một 1787. Nguồn
Anh ngữ căn bản để dịch : www.foundingfathers.info/federalistpapers/.
-
Các ghi chú là của người dịch. Ghi
chú có chữ A.A. là dựa theo ghi chú trong bản dịch Pháp văn của
Anne Amiel.
(còn 2 phần)
(còn 2 phần)
[1] Khi 13 thuộc
địa của Anh tại Bắc Mỹ cùng nhất trí đòi độc lập khỏi sự điều hành và kiểm soát
của chính quyền Hoàng gia Anh quốc, đại diện của các thuộc địa đó đã cùng nhau
lập ra một mô hình nhà nước chung cho 13 thuộc địa gọi là Bang Liên
(confederation). Các đại diện lập quốc đó đã thảo ra một bộ khung pháp lý (một
dạng hiến pháp) cho bang liên, có tên là the Articles of Confederation.
Tháng 7/1776 dự thảo pháp lý được trình cho Quốc hội lần 2 (Congress - được lập
vào 10/05/1775). Nhưng vì cuộc chiến giành độc lập với Anh xảy ra, mãi tới ngày
15/11/1777 Quốc hội mới thông qua dự thảo và chuyển tiếp cho cơ quan lập pháp
của các tiểu Bang để phê duyệt và tới ngày 01/03/1781 bản dự thảo mới được tất
cả quốc hội các tiểu Bang phê chuẩn. Tình hình 13 tiểu Bang sau chiến thắng
giành độc lập rất rối ren, có nguy cơ tan vỡ nhưng the Articles of
Confederation không đủ khả năng giải quyết. Đó chính là lý do dẫn đến Hội nghị
Liên bang (the Federal Convention) được triệu tập ở Philadelphia từ
25/5/1787-17/9/1787 với mục đích ban đầu chỉ nhằm tu chỉnh the Articles of
Confederation. Nhưng cuối cùng Hội nghị lại quyết định làm ra một văn bản lập
hiến mới với mục tiêu tạo lập một cấu trúc liên hiệp (union) nhằm gắn kết vững
chắc 13 tiểu Bang nhưng vẫn đảm bảo tự do, chủ quyền cho từng tiểu Bang. Tuy
nhiên vẫn có nhiều người nghi ngờ tính khả thi hoặc phản đối chống lại dự thảo
hiến pháp. Những người ủng hộ bản dự thảo hiến pháp mới được gọi là Federalist
– người Liên bang, còn nhóm chống lại được gọi là anti-Federalist – người Chống
Liên bang.
[2] “popular government” ở
đây James Madison dùng với ý phân biệt với chính thể thịnh hành lúc đó là chính
thể quân chủ thế tập (hereditary monarchy) quyền lực tập trung chủ yếu trong
tay một người và do đời trước truyền lại. Còn chính thể popular government là
chính thể do người dân lập nên và quyền lực được phân bổ cho nhiều người trong
một thời hạn nhất định. Vào thời điểm này thuật ngữ và ý niệm dân chủ
(democracy) vẫn chỉ được hiểu theo nghĩa dân chủ sơ khai kiểu trực tiếp của Hy
Lạp cổ đại – tất cả mọi công dân đều tham dự vào quyết định, điều hành, kể cả
người khôn, có học, lẫn người kém khôn, ít học. Những nhà lập quốc Mỹ, điển
hình là James Madison cùng nhóm Federalist của ông rất thiếu thiện cảm với kiểu
dân chủ vừa nói. Xem thêm phần Thuật ngữ mục “Chính thể bình
dân”. (Thuật ngữ sẽ được trích đăng kèm vào
phần 3 của blogspot này)
[3] Nguyên văn “public councils” là một trong những
thiết chế quản lý thuộc địa và giám sát sự hoạt động lập pháp của các nghị hội
(assembly – với các đại diện được bầu) trong thời kỳ thuộc địa. Có thể hiểu
“public council” như thượng viện và “assembly” như hạ viện sau này.
[5] Lúc này tại Mỹ chưa có đảng chính trị (political
party), “đảng phái” ở đây chỉ theo nghĩa các nhóm với các quan điểm khác nhau.
[7] Nguyên văn “self-love” (tự ái) – nhan đề một bài
luận của David Hume (1711-1776), người Scotland, có ảnh hưởng rất nhiều tới tư
tưởng của Madison và nhóm Federalist.
[9]
Ý bi quan này về con người trùng với ý của Thomas Hobbes (1588-1679) trong Leviathan, Chương 14 và ý của Tuân Tử
(kh.313-239 Tr.CN).
[10] Điểm này lại cho thấy tác giả không đặt kỳ vọng
chính vào các cá nhân lãnh đạo, dù là người tài giỏi nhất, mà đặt vào khả năng
kiểm soát của cấu trúc chính trị sao cho người lãnh đạo buộc phải tâm huyết
nhất cho lợi ích công. Đây cũng là khác biệt nền tảng với học thuyết của Khổng
Tử – chỉ mong ngóng, trông chờ ở con người cá nhân (quân tử, kẻ sĩ, vua, chúa).
[11] Đây là một lý luận có thể giải thích thêm cho
việc nước Mỹ vào buổi đầu lập nước không có đảng chính trị và đa phần các chính
trị gia thường không thiện cảm với đảng chính trị. Thomas Jefferson từng phát
biểu vào năm 1789: “Nếu tôi không thể lên được Thiên đàng vì không phải là đảng
viên thì tôi sẽ chả bao giờ muốn lên đó cả.” Nhưng chính Thomas Jefferson là
người đã lập ra đảng Democratic-Republican Party vào khoảng năm 1796, là tiền
thân của đảng Dân chủ (democratic) hiện nay.
[13] Trong giới chính trị gia của nước Mỹ thời kỳ đầu
thường có quan điểm không thiện cảm với dạng chính quyền dân chủ (democracy)
kiểu sơ khai - dựa vào sự tán thành của đa số dân chúng - vì họ cho rằng, và
cũng là sự thật của trình độ xã hội nói chung lúc đó, khối đa số dân chúng là
những người thiếu hiểu biết về chính trị.
[14] Đoạn này gợi đến nhiều ý kiến trong tư tưởng của
Benedict Spinoza (1632-1677) người Hà Lan và của Niccolò Machiavelli
(1469-1527) người Ý. A.A.
[16] Những nhận xét này có tính tiên
tri về sự thủ tiêu, trấn áp các hội đoàn đối lập, các cá nhân bất đồng chính
kiến trong các chính thể độc tài phát-xít hay cộng sản sau này.
[18] Toàn bộ ý đoạn này trùng với một ý trong bài luận
Idea of a perfect commonwealth viết
năm 1754 của David Hume (1711-1776).
[19] Đoạn này như một tiên tri về cách đoạt quyền của
những lãnh tụ độc tài phát-xít hay cộng sản sau này.
[20] Tác giả James Madison ở đây thường dùng những
hình dung từ và các từ liên quan tới thiên văn học, như 'centre', 'compass',
'sphere', 'diffusive', để mô tả đặc điểm và tính cách con người. Điều tương tự
được lặp lại trong Federalist 48 khi ông nói về cấu trúc chính quyền. Điều này
cho thấy tư duy của tác giả nhìn xét sự vật với một nhãn quan rất rộng lớn, bao
quát. A.A.
[21] “national”. Vì lúc này các tiểu bang rất e ngại khi
hình thành liên hiệp các quyền tự do của họ sẽ bị mất hoặc thuyên giảm, do đó
các nhà lập hiến Mỹ đã tránh các từ ngữ có thể làm trầm trọng thêm quan ngại
đó. Vì vậy trong Hiến pháp Mỹ không hề có từ “dân tộc”, “quốc gia” (nation,
national) mà chỉ có từ “nhân dân” (we the people) và chính quyền liên bang
(federal government). Nhưng các tác giả Federalist đã mạnh dạn một cách dè dặt
dùng các từ như “chung” (general) “quốc gia” (national) để chỉ chính quyền,
quốc gia chung của 13 tiểu Bang hợp lại. Xem thêm ghi chú số 1 trong Federalist
3, ghi chú số 25 Federalist 9.
[22] Ở đây chúng ta cần nhớ lại quan niệm của tác giả-
James Madison, cũng như nhiều chính trị gia Mỹ lúc đó, nói đến dân chủ có nghĩa là thể chế dân chủ trực
tiếp ở các thành bang (polis) thời Hy Lạp cổ đại với qui mô dân số rất nhỏ, chỉ
khoảng vài trăm nghìn người, và số người có tư cách công dân - được tham gia
điều khiển chính quyền - chỉ chiếm khoảng 10%. Đoạn này cũng cho thấy tư duy
của tác giả, và người cùng thời, có sự phân biệt giữa Cộng hòa và Dân
chủ, khác với quan niệm ngày nay: cộng hòa và dân chủ gần như là một.
[24] Ở đây chúng ta nên xem
lại những lý do khiến Montesquieu đã nghiêng về ủng hộ mô hình cộng hòa có lãnh
thổ nhỏ (khác với Publius). De
l'esprit des lois,
Chương XVI, Quyển 8, Montesquieu viết: “Dans une grande république, il y a
de grandes fortunes, et par conséquent peu de modération dans les esprits: il y
a de trop grands dépôts à mettre dans les mains d'un citoyen; les intérêts se
particularisent; un homme sent d'abord qu'il peut être heureux, grand,
glorieux, sans sa patrie; et bientôt, qu'il peut être seul grand sur les ruines
de sa patrie. Dans une grande république, le bien commun est sacrifiés à mille
considérations: il est surbordonné à des exceptions; il dépend des accidents.
Dans une petite, le bien public est mieux senti, mieux connu, plus près de
chaque citoyen; les abus y sont moins étendus, et par conséquent moins
protégés.” - “Trong một nước cộng hòa lớn, có những người giàu khổng lồ
khiến lòng người khó kiềm chế: có những tín chấp quá lớn cho mỗi công dân; các
quan tâm trở nên cá nhân hóa; người ta trước hết cảm thấy có thể trở thành hạnh
phúc, vĩ đại, vinh quang mà không cần tổ quốc; và sớm muộn người ta sẽ thành kẻ
vĩ đại duy nhất đứng trên một đất nước hoang tàn. Trong một nước cộng hòa lớn,
tài sản công phải chia cho hàng vạn đòi hỏi: nó phải phục vụ cho các ngoại lệ
và lệ thuộc vào nhiều bất trắc. Trong nước cộng hòa nhỏ, người dân cảm nhận rõ
hơn, biết rõ hơn và gần gũi hơn với tài sản công; các lạm dụng tài sản công ở
mức độ nhỏ hơn và hệ quả là dễ bị phát hiện hơn."
[25] Từ quan niệm tôn giáo phải tách rời chính quyền, người Mỹ rất sợ tôn giáo can
thiệp vào quyền lực chính trị hoặc trở thành quyền lực chính trị - điều hành
cộng đồng, quốc gia.
[27] Trước khi xảy ra Cách mạng, thuộc địa lâm vào cảnh thiếu tiền, một mặt vì
nguồn kim loại quí ngày càng hiếm, mặt khác vì chính quyền Anh đã ra đạo luật Currency Act 1764 cấm thuộc
địa in tiền giấy nhằm kiểm soát chặt thuộc địa. Sau Cách mạng, nhu cầu tiền
giấy càng tăng cao do tầng lớp nghèo khó muốn được trả nợ bằng tiền giấy nhưng
nhiều Bang vẫn duy trì chính sách cấm tiền giấy, điển hình là Massachusetts nơi
xảy ra cuộc nổi dậy Shays, trong khi một số Bang khác như Rhode Island dưới áp
lực của các con nợ đã chấp nhận cho in tiền giấy.
[28] Sau chiến tranh giành độc lập, chính quyền trung ương và các tiểu Bang
phải đối mặt với vấn đề trả nợ cho các cá nhân, tổ chức đã cho chính quyền vay.
Có người có quan điểm xóa nợ hoặc không trả. Nhưng có người giữ quan điểm phải
thanh toán đầy đủ, dù là chậm, để giữ lòng tin của xã hội, đại diện cho những
người này là Alexander Hamilton. Bên cạnh đó còn có cả những yêu cầu giảm nợ,
giãn nợ, xóa nợ của tầng lớp bần cùng đối với giới nhà giàu sau Cách Mạng, điều
này đã dẫn tới cuộc nổi dậy có vũ trang do Daniel Shays (một cựu chiến binh Cách
Mạng) cầm đầu, nổ ra ở Massachusetts, trong khoảng 08/1786-06/1787, là một
trong những động lực cụ thể cho việc cải cách hiến pháp.