Hiển thị các bài đăng có nhãn VOA. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn VOA. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2009

Một năm rối bời của nước Mỹ

Đối với nước Mỹ, năm 1860 là một năm rối bời giữa lo lắng và hy vọng. Người Mỹ đang đặt hy vọng vào vị tổng thống mới sắp được bầu. Nhưng họ cũng lo sợ ngay cả một tổng thống mới cũng khó có thể giữ được sự toàn vẹn cho đất nước. Các bang ở miền Nam đang tiến rất gần đến việc ly khai khỏi Hợp chúng vì vấn đề nô lệ.

Sau bốn năm ở vị trí tổng thống, James Buchanan quyết định sẽ không ra tranh cử tổng thống lần nữa. Buchanan là người thuộc Đảng Dân chủ. Đảng của ông, cũng như tình trạng nước Mỹ lúc đó, đang bị chia rẽ thành hai phe vì vấn đề nô lệ. Những người Dân chủ miền Nam muốn đảng của họ ủng hộ chính sách duy trì chế độ nô lệ. Những người Dân chủ miền Bắc lại không muốn thế.

Phe đối lập là Đảng Cộng hòa đang kỳ vọng sẽ thu được phiếu ủng hộ từ những người Dân chủ bất mãn. Phe Cộng hòa đã trở nên mạnh hơn từ cuộc bầu cử trước đó vào năm 1856. Họ tin rằng ứng cử viên Cộng hòa sẽ thắng trong cuộc bầu cử năm 1860.
Đại hội Đảng Dân chủ đề cử ứng viên tổng thống khai mạc vào tháng Tư tại Charleston, bang Nam Carolina. Thượng nghị sỹ Douglas của Illinois là ứng viên hàng đầu. Ông có sự ủng hộ của đa số các đại biểu tham dự đại hội. Nhưng ông vẫn chưa đạt đủ 2/3 số phiếu cần thiết để được đề cử làm ứng cử viên tổng thống.

Nhiều đại biểu đến từ miền Nam không thích Stephen Douglas. Nhiều người còn không tin ông. Một số khác lại không đồng ý với quan điểm về nô lệ của ông. Douglas không phản đối chế độ nô lệ và cũng không ủng hộ việc phát triển chế độ nô lệ. Tuy nhiên, ông cho rằng luật liên bang không thể áp đặt chế độ nô lệ ở những nơi người dân không muốn. Đó chính là chính sách “chủ quyền phổ thông” của ông.
William Yancey của bang Alabama là người đứng đầu nhóm đảng viên Dân chủ miền Nam chống lại Stephen Douglas. Yancey muốn việc ủng hộ chế độ nô lệ phải được đưa vào cương lĩnh của đảng. Ông ta tin chắc rằng Douglas sẽ không chấp nhận làm ứng cử viên tổng thống với một cương lĩnh như thế.

Trong trường hợp Yancey không làm được như thế với cương lĩnh của đảng, ông ta sẽ đưa các đảng viên Dân chủ miền Nam tẩy chay đại hội và ra khỏi đảng.

Ủy ban quyết nghị của đảng đã xem xét các đề xuất về cương lĩnh của đảng. Một đề xuất cho rằng người dân sở tại có quyền quyết định chế độ nô lệ là hợp pháp hay không. Đề xuất thứ hai để dành quyền đó cho Tòa án Tối cao. Và đề xuất thứ ba cho rằng không ai có quyền phán xét điều đó, chế độ nô lệ là hợp pháp ở mọi nơi.

William Yancey phát biểu trước đại hội rằng ông ủng hộ cương lĩnh ủng hộ chế độ nô lệ. Ông ta nói rằng những đảng viên Dân chủ không muốn phá hủy sự đoàn kết của Hợp chúng. Nhưng ông ta cũng nói rằng có người đã cho biết rõ Hợp chúng sẽ bị tan rã nếu các quyền hiến định của chủ nô lệ không được tôn trọng.

Yancey cũng nói đến mối nguy của một cuộc đại nổi dậy của nô lệ. Ông ta mô tả tình trạng đó như một ngọn núi lửa còn im lặng, đang đe dọa sinh mạng, của cải và danh dự của người dân miền Nam. Ông ta cho rằng các hành động của người miền Bắc có thể làm cho ngọn núi lửa đó trào ra.

Một đại biểu khác đáp lại diễn giải của Yancey. Người này nói rằng các đảng viên Dân chủ ở miền Bắc đã quá mệt để bảo vệ lợi ích của người miền Nam. “Bây giờ,” ông ta nói, “Yancey nói với chúng ta phải đồng ý chế độ nô lệ là đúng đắn. Ông ta lệnh cho chúng ta phải che mắt đi và ăn đồ bẩn. Thưa các quí ông miền Nam. Các vị đang lừa chúng tôi đấy. Chúng tôi không ngây thơ đến thế đâu!”

Không khí đại hội trở nên rất căng thẳng và rõ ràng là cương lĩnh ủng hộ chế độ nô lệ sẽ không được thông qua. Vì vậy, đoàn đại biểu của bang Alabama đã tuyên bố rút khỏi hội nghị. Và tiếp sau đó là 06 đoàn khác từ các bang ở phía cực Nam - Arkansas, Florida, Georgia, Louisiana, Mississippi, and Texas, cũng lần lượt bỏ đại hội.

50 đại biểu bỏ về đã tự tổ chức riêng một đại hội và thông qua một cương lĩnh ủng hộ chế độ nô lệ, nhưng không đề cử ai làm ứng cử viên tống thống. Các đại biểu này cũng nhất trí sẽ họp lại sau mấy tuần tại Richmond, Virginia.

Các đại biểu đảng Dân chủ ở miền Bắc cũng hoãn việc đề cử ứng cử viên và nhất trí sẽ họp lại tại Baltimore, Maryland.

Trong khi đó Đảng Cộng hòa tổ chức đại hội đề cử ứng viên tổng thống tại Chicago, Illinois. Ứng cử viên hàng đầu cho vị trí này rất dễ nhận ra. Đó là đảng viên Cộng hòa nổi tiếng nhất lúc đó: Thượng nghị sỹ William Seward của New York.

Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa thể hiện được mong muốn của mọi đảng viên.

Đối với những người phản đối chế độ nô lệ, cương lĩnh bác bỏ ý tưởng cho rằng chủ nô có quyền hiến định đưa nô lệ sang các vùng đất mới. Đối với vấn đề người Mỹ sinh ở nước ngoài, cương lĩnh ủng hộ quyền được hưởng đầy đủ tư cách công dân. Đối với các nhà sản xuất, cương lĩnh đề xuất một loại thuế nhập khẩu mới để bảo vệ ngành sản xuất của Mỹ. Đối với những người ở vùng tây bắc, cương lĩnh kêu gọi ủng hộ quyền sở hữu đất cho người định cư và trợ giúp của chính quyền liên bang trong việc xây dựng đường xá và kênh rạch.

Các đại biểu đã hết sức vui mừng thông qua cương lĩnh của đảng. Ngày hôm sau, đại hội sẽ tiến hành bầu ứng cử viên cho cuộc bầu cử tổng thống.

William Seward đã tin chắc ông sẽ được đảng đề cử. Nếu không phải ngay trong lần bỏ phiếu đầu tiên, ông nghĩ vậy, thì cũng sẽ là lần hai. Nhưng đã có một số người chống đối Seward. Và chiến dịch vận động của Seward đã không thành công như dự kiến.
Ứng cử viên đối lập của Seward là Abraham Lincoln.

Đại hội Đảng Cộng hòa đã phải bỏ phiếu 03 (ba) lần để xác định ứng cử viên tổng thống. Lincoln đều giành được ủng hộ ở các cuộc bỏ phiếu nhưng cả 03 lần cả hai ứng cử viên đều không thu được đủ số phiếu để chiến thắng. Sau đó, ngay trước khi cuộc bỏ phiếu lần thứ tư được thực hiện, một đại biểu từ Ohio đã đề nghị được phát biểu. Cả phòng bỗng lặng ngắt. “ Thưa ngài chủ tọa,” ông ta nói, “ Tôi đứng lên để thông báo sự thay đổi của Ohio, 04 phiếu xin được dành cả cho quí ngài Lincoln.”

Thế là đủ để Lincoln trở thành ứng cử viên cho cuộc bầu cử tổng thống sắp tới.

Một tháng sau, các đảng viên Dân chủ mở lại đại hội đề cử ứng cử viên tổng thống. Phần lớn các đại biểu miền Nam đã tẩy chay đại hội lần trước cũng đã quay trở lại. Nhưng nhiều ghế trong đại hội đã được trao cho những đại biểu mới. Vì vậy lại xảy ra cãi vã về việc đại biểu nào có quyền tham dự đại hội.

Một đề xuất thỏa hiệp dự định phân chia các ghế cho các đại biểu cũ và mới. Nhưng đa phần đại biểu miền Nam bác bỏ. Và lần lượt, phần lớn các đại biểu miền Nam lại bỏ về. Cuối cùng, các đại biểu Đảng Dân chủ còn lại đã bầu Stephen Douglas làm ứng cử viên tổng thống.

Các đảng viên Dân chủ miền Nam cũng bầu ra ứng cử viên tổng thống cho riêng họ, đó là Breckinrindge của bang Kentucky. Còn một nhóm khác có tên là Đảng Liên hợp Hiến định cũng đề cử ứng cử viên tổng thống là John Bell.

Chiến dịch tranh cử bắt đầu vào mùa hè năm 1860. Lincoln khi đó vẫn còn được ít người biết đến, vì vậy Đảng Cộng hòa đã phải ấn hành rất nhiều sách và tờ rơi để giới thiệu về ông. Đó là câu chuyện về một cậu bé quê mùa, nghèo túng, chỉ do tự học, chăm chỉ làm việc cùng với đức tính trung thực, đã trở thành ứng cử viên tổng thống.

Những người ủng hộ Lincoln đã tổ chức một chiến dịch vận động rầm rộ, vui nhộn, với những cuộc tuần hành sôi động có âm nhạc, ca hát và biểu ngữ cổ động náo nhiệt. Trong khi đó Lincoln lại hoàn toàn im lặng. Ông nói rằng “Từ khi trở thành ứng cử viên tổng thống, tôi không muốn phát biểu thêm điều gì nữa. Tôi ở đây chỉ để được ngắm nhìn quí vị và để quí vị thấy tôi thôi.”

Thực tế thì chính những trợ lý của Lincoln đã tư vấn ông không nên nói gì thì hơn. Họ cho rằng Lincoln đã nói đủ để làm rõ quan điểm của ông cho các vấn đề quan trọng rồi.

Ngược lại, Stephen Douglas lại vận động rất mạnh mẽ. Trong khi đó sức khỏe của ông không được tốt và lại gặp khó khăn về tài chính. Nhưng Douglas vẫn tiếp tục đi diễn thuyết tại hầu hết các bang.

Tuy nhiên, chỉ trong vài tuần, Douglas đã nhận ra ông không có hy vọng để chiến thắng. Quan điểm về chế độ nô lệ của ông đã làm ông mất hết ủng hộ tại miền Nam.
Douglas tin rằng trong số các ứng cử viên, Abraham Lincoln là người có cơ may chiến thắng nhất.

Ông cũng cho rằng những người cực đoan ủng hộ chế độ nô lệ sẽ sử dụng chiến thắng của Lincoln làm cái cớ để chia tách các bang miền Nam khỏi Hợp chúng quốc. Vì vậy Douglas quyết định chuyển mọi nỗ lực sang việc vận động cho sự toàn vẹn của Hợp chúng.

Ông nói:” Việc một người trở thành tổng thống do nhân dân Mỹ bầu ra, theo qui định của Hiến pháp, không được là lý do cho bất cứ âm mưu nào định làm tan rã quốc gia kiêu hãnh này.”

Bầu cử diễn ra vào ngày mồng 06 tháng 11 năm 1860. Các phiếu phổ thông ủng hộ Lincoln và Douglas rất sít sao. Nhưng các phiếu cử tri đoàn lại có khác biệt lớn. Lincoln thu được 180 phiếu. Breckinridge được 72 phiếu. Bell được 39 phiếu. Còn Douglas chỉ được có 20 phiếu.

Cuối cùng, Abraham Lincoln đắc cử tổng thống nước Mỹ vào năm 1860. Nhiệm kỳ của Abraham Lincoln được bắt đầu với việc đối mặt với một cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ. Vì ngay trước ngày tuyên thệ nhậm chức tổng thống, các bang miền Nam đã bắt đầu những hành động đe dọa, đòi li khai khỏi Hợp chúng quốc.


Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.

Tháng 07/2009
(Nguồn: program #92 of THE MAKING OF A NATION
http://www.voanews.com/specialenglish/2009-07-08-voa1.cfm

Thứ Ba, 30 tháng 6, 2009

Xét xử tội phản quốc cựu phó tổng thống Aaron Burr

Aaron Burr là cựu phó tổng thống Mỹ với nhiệm kỳ chấm dứt vào năm 1805. Lúc đó Burr đang ở trong tình trạng nợ nần chồng chất với một tương lai chính trị xám xịt.

Nhưng không phải Burr không còn tham vọng. Ông đã từng có ý tưởng đoạt lấy Mexico từ tay người Tây Ban Nha. Burr đã thiết lập được nhiều quan hệ bí mật và ông cố thuyết phục họ bằng mọi cách để được ủng hộ và giúp đỡ về tài chính cho kế hoạch của mình.

Mục đích thật sự của Aaron Burr là gì ? Có phải để chiếm lấy Mexico ? Hay để lập ra một quốc gia riêng với một số vùng phía tây nước Mỹ ? Cho đến nay, tất cả những nghi vấn này vẫn chưa được rõ.

Vào mùa xuân năm 1805 Burr du hành về phía tây. Chuyến đi đưa ông xuôi theo các sông Ohio và Missisipi tới tận thành phố cảng New Orleans, tại đây, Burr đã có những trao đổi với nhiều người giàu có và quyền thế. Ông đã trình bày kế hoạch của mình cho họ và được họ ủng hộ trong việc chấm dứt sự kiểm soát của Tây Ban Nha đối với Mexico.

Sau đó Burr chuẩn bị quay lại ngay phía đông để bắt tay thực hiện kế hoạch.

Trên đường về, Burr có dừng lại ở Saint Louis để thăm Tướng James Wilkinson, thống đốc Lãnh thổ Louisiana . Wilkinson đã cùng với Burr bàn tính kế hoạch.

Nhưng cùng lúc đó Wilkinson đang làm gián điệp cho Tây Ban Nha và Wilkinson lại không muốn mất khoản tiền được Tây Ban Nha trả cho những thông tin do ông cung cấp. Wilkinson bắt đầu nghĩ đến cách rút khỏi kế hoạch của Burr.

Wilkinson khuyên Burr tốt nhất là nên quên Mexico đi với lý do là thời điểm thực hiện không thuận lợi. Ông đề nghị được giúp Burr trở lại chính trường bằng cách trở thành dân biểu bang Indiana. Nhưng Burr đã bác bỏ đề nghị của Wilkinson và vẫn không chịu từ bỏ giấc mơ về Mexico. Burr đã từng hy vọng kế hoạch Mexico sẽ bắt đầu vào mùa xuân năm 1806. Tuy nhiên, vì thiếu tài chính nên không có việc gì được thực hiện.

Ông đã cố gắng để được giúp đỡ vật chất từ những người hy vọng được chia nguồn tài nguyên giàu có tại Mexico. Nhưng ông đã thất bại. Kết quả cũng tương tự khi ông nhờ cậy người Anh trợ giúp về tài chính và tàu thuyền.

Tạo ra chiến tranh giữa Mỹ và Tây Ban Nha là một phần quan trọng trong kế hoạch của Burr. Ông cho rằng cần phải có cuộc chiến như thế để những người ở miền tây sẽ cùng với Burr chống lại người Tây Ban Nha tại Mexico. Không có chiến tranh, kế hoạch sẽ thất bại.

Sau khi trở lại Washinton, Burr đã nhận được những tin tức xấu cho kế hoạch. Burr đã gặp Tổng thống Thomas Jefferson và Tổng thống đã thể hiện rõ là sẽ không có chiến tranh với Tây Ban Nha.

Sau lần gặp Tổng thống, Burr bắt đầu nghĩ ra các kế hoạch mới. Ông có thể đã tạm quên kế hoạch xâm chiếm Mexico. Thay vào đó, Burr nói là sẽ xây dựng một khu định cư tại Louisiana và đang chờ một thời điểm thuận lợi hơn.

Trong khi Aaron Burr còn đang đi về phía tây, các tin tức đã lan truyền khắp nơi về các hoạt động của Burr. Các báo đã đi đến mức gần như kết tội ông có âm mưu chia rẽ Hợp chủng. Mọi người dường như sẵn sàng tin vào các báo. Và đó chính là cơ hội để Tướng Wilkinson thoát khỏi kế hoạch của Burr.

Wilkinson viết một lá thư cho Tổng thống Jefferson, nói rằng có một đội quân gồm một vạn người đang tiến về New Orleans. Ông ta nói rằng đó là một phần trong một chiến dịch nhằm chống lại Mexico. Ông ta đưa ra các chi tiết của chiến dịch đó nhưng nói rằng không biết ai là người cầm đầu. Ông còn cảnh báo tổng thống rằng lực lượng đó có thể sẽ chiếm cả Louisiana cũng như Mexico.

Đó không phải là bức thư đầu tiên báo về kế hoạch Mexico của Burr gửi tới Jefferson. Đó cũng không phải lần đầu tiên Jefferson nghe nói rằng Burr đang có kế hoạch tách các bang miền tây khỏi Hợp chủng. Tuy nhiên, không như các thư khác, lần này Jefferson xem bức thư của Wilkinson như một chứng cớ chắc chắn cho tội của Burr.

Tổng thống triệu tập ngay nội các để bàn cách đối phó. Cuộc họp đi đến quyết định: Tất cả các tư lệnh quân đội được lệnh bắt ngay Burr.

Tổng thống Jefferson đã tuyên bố công khai ngay sau đó là đang có một kế hoạch vũ trang bí mật chống lại người Tây Ban Nha và bất cứ ai dính líu đến kế hoạch này nên từ bỏ ngay lập tức. Lời tuyên bố không nói gì đến tên Aaron Burr.

Jefferson cũng đề cập đến một kế hoạch vũ trang bí mật trong Thông điệp Liên bang hàng năm của tổng thống trước Quốc hội. Sau đó Quốc hội đề nghị cung cấp thêm thông tin. Trong một phát biểu đặc biệt khác, tổng thống còn nói rằng Burr có nhiều kế hoạch khác nhau, trong đó có việc tách các bang miền tây khỏi Hợp chủng và một kế hoạch khác là chiếm Mexico. Tổng thống nói Burr đang cố làm mọi người tin rằng ông ta đang xây dựng một khu định cư ở Louisiana, nhưng theo tổng thống, đó chỉ là một mưu mẹo.

Tổng thống nói rằng Burr đã phát hiện ra người dân ở các bang miền tây không ủng hộ việc tách họ khỏi Hợp chủng nên Burr đã quyết định sẽ chiếm lấy New Orleans. Jefferson cho rằng không còn điều gì nghi ngờ việc Burr đã phạm tội.

Tòa án sau này đã không chứng minh được tội của Burr. Nhưng, đối với nhiều người Mỹ, những nhận định của Jefferson được coi như sự thật. Một số người còn yêu cầu kết Burr vào hình phạt tử hình do đã phản bội tổ quốc.

Tội phản bội tổ quốc, như được giải thích trong Hiến pháp Mỹ, là một hành động của một công dân gây ra chiến tranh chống lại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

Burr bị bắt vào tháng Hai năm 1807 và bị giải về Richmon, bang Virginia để chờ một đại bồi thẩm đoàn liên bang (federal grand jury) xem xét có đủ chứng cứ để đưa Burr ra xét xử không. Vào tháng Sáu năm đó, bồi thẩm đoàn liên bang đã chính thức cáo buộc Burr vào tội phản quốc. Burr sẽ phải ra trước tòa do John Marshall, Chánh án Tòa án Tối cao của Hợp chủng Quốc Hoa kỳ làm chủ tọa.

Tại tòa có lần Burr đã tự bào chữa cho mình. Burr nói rằng « Phản bội tổ quốc không thể thực hiện được khi không có hành động. Trong khi vào lúc này đây, tôi bị cáo buộc không phải vì những hành động của tôi mà chỉ vì những tin tức sai lệch về những điều tôi có thể sẽ làm. Rõ ràng là cả nước đang chống lại một mình tôi. Đó có phải là công lý không ? Ông Wilkinson đã làm tổng thống lo sợ về tôi. Sau đó, đến lượt tổng thống lại làm cho tất cả mọi người lo sợ.”

Đúng là Tổng thống Jefferson đã muốn chứng minh Burr có tội. Ông đã lệnh cho các nhân viên chính quyền ở khắp nơi phải tìm ra nhân chứng để đưa ra chứng cớ chống lại Burr.

Một số đối thủ của Jefferson nói rằng Jefferson làm điều đó để biến phiên tòa thành một cuộc đấu về chính trị. Họ cho rằng Jefferson muốn sử dụng hồ sơ của tòa án để tấn công Chánh án Tối cao (Chief Justice) Marshall – một thành viên của đảng đối lập Federalist. Jefferson đã từng phản đối cách Marshall kiểm soát Tòa án Tối cao. Jefferson cho rằng Marshall đã sử dụng vị thế của mình để đe dọa quyền lực của tổng thống và Quốc hội.

Chánh án Tối cao Marshall đã biết trong việc cáo buộc Burr có một phần ý muốn của Jefferson. Vì vậy ông đã hết sức thận trọng và công bằng trong việc đưa ra ý kiến và quyết định.

Vào cuối tháng Tám, Chánh án Tối cao Marshall quyết định chấm dứt việc thu thập chứng cớ. Ông nói với tòa rằng, theo qui định của Hiến pháp, một cáo buộc phản quốc bắt buộc phải được chứng minh bằng hai nhân chứng, nhưng cáo buộc của chính phủ trong trường hợp này thậm chí còn không có lấy một nhân chứng. Sau đó ông ra lệnh cho bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết vụ án.

Ngày 01 tháng Chín, bồi thẩm đoàn công bố phán quyết. Phán quyết viết rằng: “ Chúng tôi, thuộc bồi thẩm đoàn, tuyên bố rằng các chứng cớ đưa ra đã không chứng minh được Aaron Burr có tội. Vì vậy, chúng tôi thấy ông ta không có tội.” Burr và các luật sư của ông hết sức tức giận và phản đối quyết liệt cách viết trong phán quyết. Burr và các luật sư nói rằng bồi thẩm đoàn không có quyền nói nhiều hơn chữ “có tội” hoặc “không có tội.” Marshall đồng ý và lệnh cho viết lại phán quyết chỉ đơn giản là “không có tội.” Phiên tòa kết thúc.

Aaron Burr còn sống thêm 29 năm nữa. Có thời gian ông sang châu Âu và sau đó trở về thành phố New York. Chỉ vài giờ trước khi qua đời, một người bạn của ông đã hỏi có bao giờ ông âm mưu chiếm Mexico với mục đích làm tan rã Hợp chúng chưa. Burr trả lời: ” Chưa! Nếu có thể tôi đã phải nghĩ ngay đến việc chiếm lấy mặt trăng và báo cho các bạn biết là tôi sẽ chia cho các bạn.”

Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.

Tháng 06/2009
(Nguồn: Program #40 of THE MAKING OF A NATION
http://www.voanews.com/specialenglish/archive/2008-07/2008-07-01-voa2.cfm)
Note: Công bố tháng 07/2009.

Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2009

Cân bằng quyền lực giữa các bang của Mỹ (tiếp theo)


Hội nghị[1] tiếp tục bàn luận về đề xuất do Ủy ban Ưu tú đưa ra về cách thức đại diện của các bang trong cơ quan lập pháp quốc gia (quốc hội). Theo đó quốc hội gồm hai viện. Sự đại diện của các bang trong một viện dựa trên số dân. Theo đó mỗi bang sẽ có 01 đại diện cho mỗi 40.000 dân. Sự đại diện của các bang trong viện kia là như nhau cho tất cả các bang. Tranh cãi giữa các bang lớn và nhỏ về vấn đề này đã diễn ra suốt mấy tuần lễ.

Các bang nhỏ đã thực sự lo rằng họ sẽ mất quyền vào tay các bang lớn trong chính quyền trung ương. Các bang nhỏ nhiều lần đã đe dọa từ bỏ Hội nghị để phản đối đề xuất đó.

William Paterson của New Jersey, một bang nhỏ, đã phát biểu:”Một số quí vị đại biểu đã cho biết là nếu các bang nhỏ không đồng ý với kế hoạch đó thì các bang lớn sẽ tự thành lập một liên hiệp với nhau. Được, hãy để họ tự liên hiệp với nhau nếu họ muôn! Họ không thể cưỡng bức người khác làm việc đó.”
Benjamin Franklin của Pennsylvania, một người có tuổi và ốm yếu, đang ngồi yên lặng ghi chép cuộc tranh luận, bỗng hỏi mọi người có thể để ông phát biểu được không. Sau đó Franklin đã nhờ James Wilson, cũng đến từ Pennsylvania, đọc hộ ý kiến của ông: “Tại sao các bang nhỏ lại nghĩ rằng họ sẽ bị nuốt chửng nếu các bang lớn có nhiều đại diện hơn trong Quốc hội? Chả có lý do nào cho nỗi sợ đó cả. Các bang lớn sẽ chả có lợi gì nếu nuốt chửng các bang nhỏ. Họ biết điều đó. Và tôi cũng thế, tôi tin là họ sẽ không cố làm điều đó đâu.”

Các đại biểu mãi vẫn không thể nhất trí về vấn đề đại diện trong quốc hội. Sau đó họ chuyển qua các phần khác.

Về việc đặt tên cho hai viện của quốc hội. Các đại biểu đưa ra nhiều cái tên khác nhau. Nhưng phần lớn lúc đó chỉ gọi một cách đơn giản là “nghành thứ nhất” và “nghành thứ hai”. Mãi sau này hai viện mới được gọi là the House of Representatives (Hạ Viện) và the Senate (Thượng Viện).

Hai câu hỏi tiếp theo là: ai sẽ được bầu vào Hạ Viện và Thượng Viện? Và ai sẽ bầu ra họ?

Các đại biểu không mất nhiều thời gian để trả lời cho câu hỏi đầu. Tất cả đồng ý là thành viên của Hạ Viện sẽ phải có ít nhất 25 tuổi đời, phải là công dân Mỹ được 07 năm. Và vào lúc bầu cử, họ phải đang sống tại bang ứng cử.

Thành viên của Thượng Viện phải có ít nhất 30 tuổi đời, phải là công dân Mỹ được 09 năm. Và vào lúc bầu cử, họ phải đang sống tại bang ứng cử.

Nhiệm kỳ của những nhà lập pháp quốc gia (đại biểu quốc hội-ND) kéo dài bao lâu? Roger Sherman của Connecticut cho rằng thành viên của Hạ Viện nên bầu lại hàng năm. Elbridge Gerry của Massachusetts đồng ý với ý kiến này. Ông ta nghĩ rằng nhiệm kỳ dài hơn sẽ dẫn đến độc tài.

James Madison của Virginia phản đối: “Chỉ mỗi việc đi lại giữa các bang và chính quyền trung ương các nhà lập pháp sẽ phải mất gần 01 năm rồi!“ . Madison đề nghị nhiệm kỳ 03 năm. Cuối cùng các đại biểu đồng ý nhiệm kỳ là 02 năm.

Có nhiều ý kiến khác nhau về nhiệm kỳ của thượng nghị sỹ. Một vài đại biểu cho rằng thượng nghị sỹ nên có nhiệm kỳ hết đời. Cuối cùng Hội nghị đồng ý nhiệm kỳ 06 năm cho các thượng nghị sỹ.

Tiếp theo là câu hỏi về lương của các đại biểu quốc hội. Họ nên được nhận lương bao nhiêu? Hoặc họ có nên được trả lương không?

Một số đại biểu cho rằng các bang nên trả lương cho đại diện của họ trong quốc hội. Những người khác lại cho rằng quốc hội nên tự quyết định trả lương từ ngân quĩ quốc gia.

James Madison cho rằng ý kiến đó rất kỳ cục. Ông cho rằng số tiền lương phải do Hiến pháp qui định. Một lần nữa Madison lại thua cuộc. Cuối cùng Hiến pháp qui định rằng các nhà lập pháp sẽ được trả lương cho sự phục vụ của họ và số tiền này được lấy từ ngân quĩ quốc gia.

Vấn đề liên quan đến việc ai sẽ bầu ra các đại biểu quốc hội đã nêu ra một đề tài thú vị, liên quan đến thiết chế dân chủ. Vào năm 1787, từ “Dân chủ” chỉ những điều rất khác với nghĩa của nó của ngày hôm nay. Đối với nhiều đại biểu trong Hội nghị, “Dân chủ” có nghĩa là sự cai trị của đám dân chúng tầm thường, ít hiểu biết. Việc trao quyền lực cho dân chúng như thế sẽ là lời mời gọi cho tình trạng hỗn loạn.
Roger Sherman tuyên bố:”Dân chúng nên liên đới tới chính quyền càng ít càng tốt.” Còn Elbridge Gerry lại nói “Những tồi tệ mà chúng ta đang thấy đều xuất phát từ việc có quá nhiều dân chủ.”

Với những phát biểu như thế, mọi người có thể hiểu được tại sao các tranh luận thường rất gay gắt đối với các đề xuất để cho dân chúng bầu ra các đại biểu quốc hội.

Sherman, Gerry và những người khác muốn để cơ quan lập pháp các bang chọn ra đại biểu quốc hội.
George Mason của Virginia ủng hộ việc dân chúng tham gia bầu cử. “Người dân sẽ có đại diện của họ do đó họ sẽ phải là người chọn ra các đại diện đó.” James cũng đồng ý như thế:”Tôi muốn thấy quyền lực của chính phủ được đến ngay từ nguồn lực hợp pháp của sức mạnh đó, sức mạnh của nhân dân.”
James Madison khẳng định chắc chắn là người dân phải là người bầu ra ít nhất một viện của quốc hội. Theo ông, đó là điều kiện cơ bản để có một chính quyền tự do. Đa số trong Hội nghị đều đồng ý với Mason, WilsonMadison. Cuối cùng các đại biểu đồng ý các thành viên của Hạ Viện sẽ do dân bầu trực tiếp.

Hội nghị tiếp tục xem xét cách thức chọn ra các thượng nghị sỹ. Có 04 ý kiến được nêu ra. Do Hạ Viện, do tổng thống, do cơ quan lập pháp tại các bang hoặc do chính dân bầu. Các tranh luận đồng ý và phản đối đều giống như trong việc định ra cách lựa chọn các hạ nghị sỹ.

Cuối cùng, đa số các đại biểu đã đồng ý để cơ quan lập pháp tại các bang bầu ra các thượng nghị sỹ trong quốc hội. Điều này cũng được ghi vào Hiến pháp và cách thức bầu này đã được duy trì trong hơn 100 năm. Tới năm 1913, các bang đã thông qua Tu chính thứ 17 của Hiến pháp, cho phép dân bầu trực tiếp các thượng nghị sỹ.

Sau cùng là lúc Hội nghị phải đối mặt với vấn đề đại diện trong Hạ Viện và Thượng Viện. Các bang lớn thì muốn đại diện dựa trên số dân còn các bang nhỏ lại muốn đại diện bình đẳng như nhau.

Các đại biểu đã bỏ phiếu rất nhiều lần cho vấn đề này ngay từ khi Hội nghị bắt đầu. Nhưng cả hai quan điểm đều không thay đổi. Đến lúc này họ biết rằng không thể tiếp tục để bỏ phiếu mãi được.

Ngày 05 tháng Bảy, Ủy ban Ưu tú đã trình ra một thỏa hiệp gồm hai phần dựa trên ý tưởng của Roger Sherman. Thỏa hiệp mang lại lợi ích cho cả bang lớn và bang nhỏ. Thỏa hiệp đưa ra đề nghị đại diện trong Hạ Viện dựa trên số dân còn đại diện trong Thượng Viện thì bình đẳng như nhau.

Ủy ban đề nghị cả hai phần của thỏa hiệp buộc phải được cùng đồng ý hoặc cùng bị bác bỏ. Ngày 16 tháng Bảy, Hội nghị đã tổ chức bỏ phiếu lần cuối cùng. Và thỏa hiệp đã được thông qua, với tên gọi Đại Thỏa hiệp[2].

Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.
Tháng 05/2009
(Nguồn: program #22 of THE MAKING OF A NATION


[1] Hội nghị lập Hiến của Mỹ diễn ra từ ngày 25/05/1787 đến ngày 17/09/1787 tại Philadelphia. Hội nghị bàn nhiều vấn đề về xây dựng một mô hình mới cho chính quyền liên bang Mỹ sau 11 năm tuyên bố Độc lập khỏi sự đô hộ của Anh quốc (ND).
[2] Hạ Viện hiện nay gồm 435 thành viên (hạ nghị sỹ) với nhiệm kỳ 02 năm. Thượng Viện hiện có 100 thành viên (Thượng nghị sỹ, chia đều cho 50 bang), nhiệm kỳ 06 năm, nhưng cứ 02 năm có 1/3 số Thượng nghị sỹ được bầu lại.(ND)

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2009

Cân bằng quyền lực giữa các bang của Mỹ


Cuối cùng, Hội nghị [1] đã đạt được nhất trí cho nghành tư pháp quốc gia. Các đại biểu đã thông qua việc thiết lập một Tòa án Tối cao và Quốc hội liên bang sẽ đảm trách việc xây dựng hệ thống tòa án quốc gia cấp dưới. Lãnh đạo hành pháp (tổng thống) sẽ bổ nhiệm các thẩm phán. Các tòa án đó sẽ phân xử các vấn đề liên quan tới luật quốc gia (của toàn liên bang-ND), các quyền của công dân Mỹ và các vi phạm của người nước ngoài trên đất Hoa Kỳ.

Hệ thống tòa án hiện tại ở các bang sẽ tiếp tục giải quyết các vụ việc liên quan tới pháp luật của từng bang.

Hội nghị đã nghe trình bày nhiều dự án về mô hình chính quyền quốc gia. VirginiaNew Jersey đã trình bày các dự án của họ. Riêng Alexander Hamilton đưa ra dự án thứ ba, trong đó chính quyền quốc gia có quyền lực gần như không giới hạn.

Các ý tưởng của Alexander Hamilton đều không được hưởng ứng. Sau bài diễn văn dài 05 giờ đồng hồ, một đại biểu nói: “Ai cũng khâm phục Hamilton. Nhưng không ai ủng hộ được các ý tưởng đó.”

Các đại biểu đã phải bỏ phiếu để bác bỏ Dự án New Jersey. Nhưng dự án của Hamilton không được đem ra bỏ phiếu. Từ đó trở đi, tất cả các tranh luận chỉ xoay quanh dự án của Virginia.

Các đại biểu bắt đầu thảo luận về việc lập ra một cơ quan lập pháp quốc gia (quốc hội-ND). Đây là vấn đề được tranh luận gay gắt nhất trong Hội nghị. Câu hỏi về sự đại diện bình đẳng trong quốc hội đã được Hội nghị đưa ra thảo luận. Liệu các bang nhỏ và lớn có cùng tiếng nói như nhau trong chính quyền trung ương?

Một đại biểu đã mô tả thực trạng như sau: “Sự thật thì các tranh luận của chúng ta ở đây chỉ là đấu tranh cho quyền lực chứ không phải cho tự do. Các bang nhỏ có thể sẽ phải bớt quyền lực cho các bang lớn trong quốc hội. Nhưng những người sống ở các bang nhỏ vẫn có các tự do như những người sống ở các bang lớn.”

Vấn đề này đã làm tình hình trở nên hết sức nguy kịch. Một hôm, đại biểu Gunning Bedford của Delaware đã hét thẳng vào các đại biểu đến từ các bang lớn: “Thưa các ngài, tôi không tin các ngài. Nếu các ngài cố tình đè bẹp các bang nhỏ, các ngài sẽ phá tan cả liên bang đấy. Và nếu các ngài cứ cố tình, sẽ có ngay một đồng minh nước ngoài tử tế và đáng trọng hơn đưa họ đi và mang công lý tới cho họ.”

Cuộc tranh luận về cách đại diện trong quốc hội, giữa bang lớn với bang nhỏ, đã kéo dài suốt mấy tuần lễ trong mùa hè năm đó tại Philadenphia. Các đại biểu phải bỏ phiếu để đánh giá các đề án, rồi lại tranh luận các đề án khác, rồi lại bỏ phiếu. Đến đầu tháng Bảy năm đó, vẫn chưa tìm được sự nhất trí nào tốt hơn hồi tháng Năm. Như một đại biểu đã than thở: ”Hình như chúng ta đang ở trong tình trạng kẹt cứng.”
Sau đó các đại biểu phải làm theo cách mà các tổ chức lớn vẫn thường làm khi không thể tìm được sự nhất trí. Họ bỏ phiếu để bầu ra một ủy ban với mục đích để tìm một sự thỏa hiệp cho vấn đề đại diện trong quốc hội. Ủy ban với cái tên “ Ủy ban Ưu tú” sẽ phải làm việc trong các ngày tiếp theo, trong khi số đại biểu còn lại sẽ nghỉ ngơi, tận hưởng ngày lễ mồng Bốn tháng Bảy.

04 tháng Bảy là ngày công bố bản Tuyên ngôn Độc lập - là ngày lễ quốc gia tại Hoa Kỳ. Ngày lễ năm đó đánh dấu 11 năm sau khi nước Mỹ tuyên bố độc lập, thoát khỏi sự cai trị của người Anh. Đó là ngày dành để chiêm ngưỡng các lễ diễu hành, pháo hoa và thưởng thức những lời ca yêu nước. Lễ kỷ niệm còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Philadelphia. Đó là thành phố nơi bản Tuyên ngôn Độc lập được ký kết. Và bây giờ là nơi đang tạo ra mô hình mới cho quốc gia.

Vị chủ tich Hội nghị, George Washington, đã dẫn đầu một đoàn đại biểu tới dự lễ kỷ niệm tại một nhà thờ của Philadelphia. Ở đó, họ đã được nghe một bài diễn văn dành riêng cho họ, trong đó có đoạn:
“Cả nước hiện đang rất hồi hộp trông ngóng nơi quí vị,. Tương lai của đất nước đang tùy thuộc vào quyết định của quí vị. Cả nước tin rằng những người con của mình như quí vị, những người đã lãnh đạo cả nước trong cuộc đấu tranh giành độc lập, sẽ tìm ra được một chính quyền có khả năng mang lại những điều tốt lành cho mọi người Mỹ.” “Chắc chắn là chúng ta đang có những người hiểu về cách tổ chức chính quyền, có những người có khả năng giải quyết được mọi vấn đề. Chắc chắn, chúng ta sẽ có đủ khả năng để tạo ra một mô hình chính quyền bảo vệ được những tự do mà chúng ta mới giành được.”

Đúng là các đại biểu đang rất cần nghe những lời khích lệ như thế. Chỉ vài ngày trước đó, Benjamin Franklin đã biểu hiện sự bi quan về Hội nghị: “Hình như chúng ta còn thiếu nhiều kiến thức về chính trị, chúng ta đang bị luẩn quẩn trong vấn đề này. Chúng ta đã xem xét đến các mô hình chính quyền thời cổ đại. Chúng ta đã nghiên cứu các mô hình chính quyền cộng hòa xưa cũ. Chúng ta cũng xem cả các mô hình nhà nước hiện đang có khắp châu Âu. Nhưng chúng ta đã không tìm thấy mô hình nào phù hợp với tình hình hiện nay của chúng ta.”

Franklin còn kêu gọi Hội nghị nhờ đến sự giúp đỡ của Thượng Đế. Ông nói rằng mỗi buổi họp nên bắt đầu bằng một lễ cầu nguyện.

Nhưng Hugh Williamson của North Carolina đã nhanh chóng dập tắt ý tưởng của Franklin bằng lý lẽ đơn giản là Hội nghị không có tiền để trả cho mục sư làm lễ cầu nguyện.

Hội nghị quay trở lại làm việc vào ngày mồng Năm tháng Bảy. Các đại biểu cùng nghe một báo cáo của Ủy ban Ưu tú về sự đại diện trong quốc hội. Bản báo cáo đưa ra hai đề xuất. Ủy ban nói rằng cả hai đề xuất sẽ phải được cùng chấp nhận hoặc cùng bị bác bỏ.

Bản báo cáo đưa ra mô hình cơ quan lập pháp gồm hai viện. Đề xuất thứ nhất đề nghị sự đại diện ở một viện dựa theo số dân. Mỗi bang sẽ có một đại diện cho mỗi 40.000 dân trong bang đó.

Đề xuất thứ hai đề nghị sự đại diện trong viện thứ hai là giống nhau. Mỗi bang sẽ có cùng một số đại diện như nhau.

Trước đó Hội nghị cũng đã bỏ phiếu cho mô hình quốc hội có hai viện, nhưng không đạt được nhất trí về số lượng đại diện của mỗi bang sẽ có trong mỗi viện và cũng không thống nhất được cách bầu ra các đại diện.

Các đề xuất của Ủy ban Ưu tú đưa ra ngày mồng Năm tháng Bảy chính là đề xuất đã được đại biểu Roger Sherman của Connecticut trình bày vào tháng trước. Sau này, những đề xuất đó đã được gọi với cái tên là “Đại thỏa hiệp”.

Các đại biểu mất nhiều ngày để tranh luận về cách thỏa hiệp. Họ biết rằng nếu không đạt được nhất trí, Hội nghị sẽ thất bại. Đó thực là những ngày u ám tại Philadelphia.

Sau này, đại biểu Luther Martin của Maryland cho biết những gì mà các báo đưa tin về sự nhất trí của Hội nghị là không đúng sự thật. “Hội nghị suýt nữa thì tan vỡ,” Martin nói. “Cơ hội để chúng tôi ngồi lại với nhau lúc đó chỉ còn hết sức mỏng manh.”

Trước đó, các đại biểu Robert Yates và John Lansing của New York đã bỏ về để phản đối Hội nghị. Nhưng George Mason của Virginia đã tuyên bố ông sẽ chết ở đây nếu phải rời bỏ Hội nghị mà không đạt được một nhất trí nào đó.

Ngay cả George Washington cũng cảm thấy thất vọng. Ông đã viết thư cho Alexander Hamilton, người vừa tạm quay về New York: “Tôi rất buồn là ông đã đi rồi. Các tranh luận của chúng ta hiện nay, nếu còn có thể, lại đang xấu hẳn đi. Rất khó nhất trí về cách tạo ra một chính quyền tốt. Tôi đã mất gần hết hy vọng cho thành công của Hội nghị rồi. Và tôi thấy tiếc là tôi đã đồng ý tham dự vào Hội nghị.”

Trong mùa hè năm 1787, các đại biểu cũng đã tranh cãi rất lâu và căng thẳng về việc trao bao nhiêu quyền cho chính quyền trung ương. Nhưng đó không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Hội nghị.
Nhiều năm sau đó, James Madison đã nói vấn đề nghiêm trọng nhất của Hội nghị là việc quyết định cách thức đại diện và biểu quyết của các bang trong chính quyền quốc gia (liên bang-ND). Đây chính là vấn đề gây nhiều khó khăn nhất cho việc thảo ra được bản Hiến pháp.
(còn nữa)

Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.
Tháng 04/2009


[1] Hội nghị lập Hiến của Mỹ diễn ra từ ngày 25/05/1787 đến ngày 17/09/1787 tại Philadelphia. Hội nghị bàn nhiều vấn đề về xây dựng một mô hình mới cho chính quyền liên bang Mỹ sau 11 năm tuyên bố Độc lập khỏi sự đô hộ của Anh quốc.

Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2009

Susan B. Anthony – Cả cuộc đời vì phụ nữ


Vào năm 1776 có một quốc gia tự tuyên bố tự do, thoát khỏi sự kiềm chế của Anh quốc. Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ lúc đó đã nêu ra các lý lẽ cho việc phải nỗ lực giành lấy sự tự do đó. Bản Tuyên ngôn đó xác quyết rằng mọi người được tạo hóa sinh ra bình đẳng, mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và quyền tạo lập hạnh phúc.

Tuy nhiên, không phải tất cả các công dân Mỹ đều có được ngay một loại quyền quan trọng. Đó là quyền bầu cử. Lúc đầu, chỉ có những người đàn ông da trắng có tài sản và biết đọc mới có quyền đi bầu cử. Mãi đến năm 1860, mọi đàn ông da trắng trên 21 tuổi mới có quyền bầu cử.

Và phải đến khi có Tu chính thứ 14 và 15 trong bản Hiến pháp, được thông qua vào năm 1868 và 1870, đàn ông da đen mới được quyền đi bầu cử.

Đối với phụ nữ Mỹ vào những năm 1800, họ chưa được là những công dân thực sự, theo nghĩa đầy đủ các quyền. Lúc đó họ chưa được thừa nhận có quyền độc lập về kinh tế. Mọi tài sản riêng của người phụ nữ đang có đều trở thành tài sản của người chồng khi họ lập gia đình. Tất cả mọi tiền bạc của người phụ nữ có được do làm việc cũng đều thuộc về người chồng. Phụ nữ lúc đó không có quyền chính trị. Họ không có quyền bầu cử.

Vào những năm 1850, phụ nữ Mỹ bắt đầu tập hợp nhau lại để đòi hỏi quyền đi bỏ phiếu. Các hoạt động của họ được gọi là phong trào nữ quyền bầu cử. Phụ nữ Mỹ đã phải đấu tranh ròng rã trong hơn 70 năm để có được quyền bầu cử.

Một trong các thủ lĩnh của phong trào lúc đó là Susan B. Anthony ở bang Massachusetts. Anthony lúc đó là một giáo viên và bà cho rằng phụ nữ cần phải có sự tự lập về cá nhân và độc lập về kinh tế. Bà cũng cho rằng sẽ không có hy vọng cho tiến bộ xã hội tại Mỹ chừng nào phụ nữ chưa được trao đầy đủ các quyền như nam giới. Các quyền đó phải bao gồm cả quyền bỏ phiếu bầu cử.

Susan B. Anthony sinh năm 1820. Cha mẹ của bà theo đạo Quaker. Sau đó bà cũng trở thành tín đồ Quaker. Giáo phái Quaker cho rằng các quyền của người phụ nữ cần phải được trân trọng. Quaker là giáo phái đầu tiên chấp nhận phụ nữ lãnh đạo.

Ngay khi còn trẻ, Susan đã có niềm xác tín rằng phụ nữ và người da đen cũng xứng đáng được hưởng công lý và sự bình đẳng. Do đó bà thường lên tiếng phản đối ngay những gì bà cho là bất công.

Nhiều trai trẻ muốn kết hôn với bà. Nhưng bà thường không quan tâm tới những người bà cho là kém thông minh. Có lần bà đã nói: “Tôi không thể hiểu được tại sao những cô gái thông minh lại đi lấy những gã ngốc chỉ để cho có tấm chồng. Rất nhiều cô đang định làm như thế. Nhưng tôi thì sẽ không bao giờ.

Bà cũng đã gặp nhiều chàng trai lanh lợi. Nhưng dường như tất cả họ đều chỉ muốn phụ nữ trở thành kẻ tôi tớ cho họ, chứ không phải là những người bình quyền.

Susan B. Anthony làm giáo viên phổ thông tại bang New York. Bà nhận ra rằng phụ nữ sẽ không bao giờ trở thành công dân đầy đủ nếu không có quyền chính trị. Và họ sẽ không thể có quyền chính trị chừng nào họ chưa có được quyền đi bầu cử. Vì vậy bà đã tự đi đến các thị trấn, thành phố trong bang New York để thuyết phục phụ nữ về tầm quan trọng của quyền bầu cử. Nhưng dường như tất cả họ đều không quan tâm. Anthony đã cảm thấy nguyên nhân của sự thờ ơ đó là do phụ nữ lúc đó không thể làm bất cứ cái gì cho riêng họ. Họ không có tiền, không có tài sản riêng. Cuộc đấu tranh cho thấy sẽ rất khó khăn và lâu dài. Bà nói: ”Càng đi tôi càng hiểu rõ hơn về sự bất công mà chúng tôi cần phải chống lại. Sự bất công đó chính là người phụ nữ sẽ không thể thay đổi được thực trạng bất công của họ chừng nào cuộc đời của chính họ vẫn bị phụ thuộc vào đàn ông. Phụ nữ sẽ không thể làm được gì nếu họ vẫn chưa được tự lập. Họ sẽ còn bịgiam hãm nếu luật pháp không trao cho họ quyền được sở hữu tài sản hay tiền bạc do chính họ làm ra.

Cô gái trẻ Anthony đã đi tới từng thành phố, thị trấn, thôn xóm trong bang New York để gặp gỡ, nói chuyện với mọi người ở trường học, nhà thờ và nơi công cộng. Khi tới đâu cô cũng phân phát các tờ rơi cổ động cho quyền của phụ nữ.

Cô cũng tổ chức các cuộc vận động các đại biểu quốc hội của New York sửa luật để trao cho phụ nữ quyền sở hữu tài sản. Chiến dịch vận động thất bại ở New York, nhưng đã bắt đầu có kết quả ở một số nơi khác.

Năm 1851, Susan B. Anthony đã gặp được Elizabeth Cady Stanton, một phụ nữ cũng ủng hộ quyền bình đẳng cho phụ nữ. Hai người đã phối hợp với nhau để lãnh đạo phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ. Elizabeth Cady Stanton, vì có nhiều con, nên chỉ ở nhà để nghiên cứu và đưa ra các ý tưởng. Trong khi Susan B. Anthony, do độc thân, nhận trách nhiệm đi các nơi để diễn thuyết và tổ chức các cuộc vận động. Hai bà đã gặt được thành công quan trọng đầu tiên vào năm 1860 khi bang New York thông qua bộ luật sở hữu cho phụ nữ đã có gia đình. Đó là lần đầu tiên tại New York, phụ nữ lập gia đình có quyền sở hữu tiền do mình làm ra. Sau bao năm vất vả, công việc vận động của Susan B. Anthony đã bắt đầu đơm trái. Cuộc vận động tiếp tục được tiến hành sang các bang khác của Mỹ.

Cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc đã kết thúc vào năm 1865 với thành quả là Tuyên ngôn giải phóng nô lệ người da đen. Tuy thế, Susan B. Anthony vẫn nhận thấy còn rất nhiều việc phải làm để mang lại sự tự do đầy đủ cho người da đen, cũng như phụ nữ. Bà lại bắt đầu vận động cho quyền bầu cử cho người da đen và phụ nữ.

Năm 1868, Tu chính án số 14 của Hiến pháp Mỹ đã trao cho người da đen được quyền bầu cử, còn người phụ nữ vẫn bị gạt ra ngoài. Susan B. Anthony đã cố gắng vận động để quyền bầu cử của phụ nữ cũng được nằm trong Tu chính án số 14, nhưng không thành công. Sau đó, Susan B. Anthony đã quyết định hành động để thăm dò phản ứng nhà chức trách sau khi Tu chính án số 14 được thông qua. Bà thực hiện chiến thuật thăm dò ngay trong đợt bầu cử tổng thống năm 1872. Vào ngày bầu cử, bà đã dẫn đầu một nhóm phụ nữ tới Rochester, New York để bỏ phiếu. Hai tuần sau đó, bà đã bị bắt với lý do vì đã tham gia bỏ phiếu khi chưa được luật cho phép. Trước ngày xét xử, Susan B. Anthony đã thực hiện nhiều chuyến đi khắp bang New York để diễn thuyết về sự bất công khi không cho phụ nữ quyền bầu cử. Bà nói:“Thể chế chính trị cộng hòa, dân chủ của chúng ta là thể chế làm cho tất cả mọi người có tiếng nói, có quyền tham gia vào việc làm ra pháp luật. Vâng, chính chúng ta, tất cả chúng ta chứ không chỉ là người da trắng hay chỉ là đàn ông tạo nên đất nước này. Chúng ta lập ra quốc gia tự do này không phải cho một nửa chúng ta, không phải cho một nửa con cháu chúng ta, mà phải cho tất cả, cả đàn bà và cả đàn ông. Quyền bầu cử chính là quyền cơ bản nhất của một công dân. Không có nó, mọi quyền khác sẽ trở nên vô nghĩa”.

Susan B. Anthony bị đưa ra xét xử và bị kết án là đã vi phạm pháp luật với án phạt là 100 Đô-la. Bà đã phản đối bản án vì cho rằng luật pháp là sai lầm, không công bằng và từ chối nộp tiền phạt.

Sau đó, Susan B. Anthony lại tiếp tục lãnh đạo cuộc vận động đòi quyền bầu cử cho phụ nữ thông qua con đường sửa đổi hiến pháp. Bà đã đi vận động cùng với mọi người khắp đất nước Mỹ và chỉ dừng lại khi ở tuổi 75. Năm 1904 Susan B. Anthony đã phát biểu lần cuối cùng trước một Ủy ban của Thượng viện Mỹ nhân dịp Thượng viện đang xem xét dự luật thay đổi Hiến pháp để trao quyền bầu cử cho phụ nữ. Bà đã biết rằng cuối cùng cuộc đấu tranh của bà sẽ chiến thắng. Nhưng bà cũng biết rằng chiến thắng sẽ không đến sớm để bà có thể chứng kiến.

Susan B.Anthony mất vào năm 1906 ở tuổi 86. Và phải thêm 13 năm nữa, vào năm 1919, Quốc hội Mỹ mới thông qua Tu chính Hiến pháp số 19, Tu chính này công bố quyền bầu cử không được từ chối với bất kỳ ai chỉ vì giới tính. Tu chính này cần phải đạt được sự nhất trí của ba phần tư tổng số bang của Mỹ lúc đó. Và cuối cùng, Tu chính hiến pháp số 19 đã có hiệu lực vào ngày 20 tháng 08 năm 1920 với tên gọi Tu chính Anthony để tưởng nhớ Susan B. Anthony – một phụ nữ đã cống hiến cả cuộc đời vì quyền bầu cử cho phụ nữ tại Mỹ.

Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.
Tháng 03/2009

Thứ Sáu, 20 tháng 2, 2009

Sự cần thiết của hệ thống tòa án liên bang Mỹ


Một vấn đề lớn khác được đưa ra tranh luận trong Hội nghị (Hội nghị Lập hiến tại Philadelphia tháng 05-09/1787-ND) là hệ thống các tòa án và thẩm phán cấp liên bang.

Các đại biểu đều là những người am hiểu vấn đề này. Trong số họ, có 34 đại biểu là luật sư, 08 người là thẩm phán tại các bang. Nhưng có một câu hỏi lớn vẫn bỏ ngỏ: Các bang đã có các tòa án và thẩm phán riêng rồi. Vậy chính quyền trung ương có cần thêm như thế không?

Nhiều đại biểu cho rằng không cần. Roger Sherman đến từ Connecticut nói rằng các tòa án hiện tại ở các bang là đã đủ rồi. Hơn nữa, ông ta nói thêm, thêm một hệ thống tòa án cấp trung ương sẽ gây thêm rất nhiều chi phí.

John Rutledge đến từ South Carolina phản đối hệ thống tòa án trung ương ở cấp thấp. Nhưng ông ta lập luận ủng hộ cho một tòa án Tối cao.

Hội nghị đã bỏ phiếu đồng ý cho cả hai ý tưởng này. Sẽ có một Tòa án Tối cao và một hệ thống tòa án trung ương cấp thấp hơn. Các tòa án trung ương sẽ phân xử các vụ việc liên quan đến các luật liên bang, đến quyền lợi của các công dân Mỹ và các sai phạm của người nước ngoài trên đất Mỹ.

Hệ thống tòa án các bang vẫn sẽ tiếp tục phân xử các vụ việc liên quan tới luật của các bang.

Vấn đề tiếp theo liên quan tới việc bổ nhiệm các thẩm phán trung ương. Một số đại biểu cho rằng các thẩm phán phải do cơ quan lập pháp trung ương bổ nhiệm. Một số khác cho rằng để tổng thống bổ nhiệm các thẩm phán.

James Wilson đến từ Pennsylvania lập luận ủng hộ việc để một cá nhân bổ nhiệm các thẩm phán. Ông ta nói rằng kinh nghiệm cho thấy các cơ quan không thể thực hiện việc bổ nhiệm một cách công bằng hoặc công khai.

John Rutledge phản đối mạnh mẽ. Chả có lý nào, ông nói, lại để tổng thống bổ nhiệm thẩm phán. Ông cho rằng cách đó quá giống với chế độ quân chủ.

Benjamin Franklin lại kể một câu chuyện vui. Ở Scotland, Franklin nói, các thẩm phán do chính các luật sư bổ nhiệm. Họ thường chọn luật sư tốt nhất để làm thẩm phán. Sau đó họ phân chia công việc cho nhau.

Các đại biểu tiến hành bỏ phiếu. Nhưng họ chỉ thống nhất được với việc lập ra một Tòa án Tối cao. Còn các chi tiết cho toàn bộ hệ thống sẽ để cho cơ quan lập pháp liên bang và tổng thống quyết định.

Cơ quan lập pháp sẽ quyết định số lượng thẩm phán trong Tòa án Tối cao. Tổng thống sẽ bổ nhiệm thẩm phán. Cơ quan lập pháp có thể lập thêm các tòa án cấp thấp hơn. Tổng thống cũng là người bổ nhiệm các thẩm phán đó.

Qua suốt mùa hè năm 1787, các tranh luận phần lớn dựa trên mô hình chính quyền do các đại biểu từ Virginia đề xuất. Nhưng mô hình Virginia không phải là mô hình duy nhất được đề xuất. Còn có một mô hình khác đến từ New Jersey.

Đại biểu William Paterson từ New Jersey trình bày một mô hình chính quyền sau khi hội nghị đã bắt đầu được khoảng một tháng. Các đại biểu khác ngay lập tức nhận ra mô hình này đối lập trực tiếp với mô hình Virginia.

Mô hình Virginia đề cập đến một chính quyền trung ương. Trong đó, một cơ quan lập pháp trung ương, một cơ quan hành pháp trung ương và cơ quan tư pháp trung ương sẽ có quyền lực tối cao bao trùm lên tất cả các bang. Trong khi mô hình New Jersey nói đến một chính quyền liên bang. Trong đó, mỗi bang vẫn sẽ giữ quyền lực độc lập với quyền lực của cả tổng thể liên bang.

Mô hình New Jersey chỉ đề xuất một số thay đổi trong các Điều khoản Liên bang hiện tại. Mô hình này không đưa ra một hệ thống chính quyền mới hoàn toàn.

Theo mô hình New Jersey, chính quyền liên bang sẽ có một cơ quan lập pháp trung ương chỉ với một viện. Mỗi bang sẽ có một đại biểu trong cơ quan lập pháp đó. Bang lớn hay nhỏ đều bình đẳng như nhau. Chính quyền liên bang sẽ có cơ quan hành pháp do nhiều hơn một người lãnh đạo. Không có hệ thống tòa án liên bang cấp thấp. Quyền lực của chính quyền liên bang do các bang quyết định, không phải do…nhân dân quyết định.

Những người ủng hộ cho mô hình của New Jersey nói về mục đích đích thực của Hội nghị Philadelphia. Họ cho rằng các bang gửi các đại biểu đến đây để thảo luận để cải tiến cho các Điều khoản Liên bang[1] . Họ cho rằng các đại biểu không có quyền phế bỏ các Điều khoản đó đi. Nếu sự liên hợp dưới các Điều khoản là thực sự sai lầm, họ nói, thì hãy để chúng tôi quay về với các bang của mình. Cần phải đợi để các bang cho chúng tôi nhiều quyền hơn trong việc đàm phán. Đừng để chúng tôi phải cáng đáng những trách nhiệm đó.

Sau đó, James Wilson từ Pennsylvania phát biểu. Ông ta diễn giải suy nghĩ riêng của mình về mục đích của Hội nghị. Mục đích của Hội nghị không phải đi đến sự thống nhất cho mọi vấn đề. Nhưng Hội nghị có thể đề xuất và thảo luận bất cứ vấn đề nào đó.

Wilson cũng đặt vấn đề về quyền của các đại biểu trong việc phát ngôn cho dân chúng. Phải chăng là không đúng khi ý kiến của những người khác thường bị nhầm lẫn cho rằng đó là ý kiến của dân chúng?

Ông ghi nhận rằng một số đại biểu tin chắc là nhân dân sẽ không chấp nhận một chính quyền trung ương. Rằng nhân dân sẽ không bao giờ từ bỏ quyền của riêng các bang của họ.

Wilson nghi hoặc: “Tại sao một chính quyền trung ương lại không có uy tín? Phải chăng là nó ít danh giá hơn? Hay các công dân sẽ ít tự do hoặc ít được bảo trợ hơn? Hay công dân của một bang sẽ ít được tôn trọng hơn khi trở thành công dân của Hợp chủng quốc Hoa kỳ?”

Edmund Randolph từ Virginia phát biểu tiếp theo. Ông nói, Hội nghị không có lựa chọn nào khác ngoài việc tìm cách xây dựng một chính quyền trung ương cho quốc gia. Sẽ là một hành động phản quốc nếu không làm mọi điều cần thiết để cứu lấy nước cộng hòa. Và, ông nói, chỉ có một chính quyền mới, có quyền lực bao quát mới làm được điều đó.

“Thời khắc này là thời khắc cuối cùng để có thể thiết lập một chính quyền trung ương,” Randolph nói tiếp. “Sau thời điểm này, tất cả mọi người dân sẽ không hy vọng gì nữa.”

Tranh luận về mô hình của New Jersey diễn ra vào thứ Bảy, ngày 16 tháng Sáu. Ngày thứ Hai, cả Hội nghị nghe trình bày về một mô hình chính quyền khác do đại biểu đến từ New York, Alexander Hamilton trình bày.

Hamilton trước đó nói rất ít. Nhưng vào ngày thứ Hai đó, Hamilton đã phát biểu trong 5 tiếng đồng hồ. Hamilton nói những ý tưởng của ông không phải là một đề xuất riêng, nó chỉ nên coi là những thay đổi thêm vào mô hình của Virginia. Sau đó ông đọc to lên các chi tiết.

“Tôi muốn thấy ở nước Mỹ có một vị lãnh đạo cơ quan hành pháp. Người đó sẽ do các đại cử tri lựa chọn. Người đó có quyền phủ quyết luật và quyền phủ quyết đó không thể bị bác bỏ. Người đó sẽ phụng sự chức vụ đó cho đến hết đời. Và cơ quan lập pháp trung ương sẽ có hai viện. Viện ở trên sẽ gọi là thượng viện. Viện ở dưới sẽ gọi là hạ viện. Giống như vị trí lãnh đạo của hành pháp, các thượng nghị sỹ sẽ do các đại cử tri bầu ra cho nhiệm kỳ hết đời. Các thành viên của hạ viện sẽ được nhân dân bầu trực tiếp cho một nhiệm kỳ ba năm.”

Sau đó, Hamilton nói về các bang. Theo mô hình của ông, các bang sẽ mất đi nhiều quyền hiện nay họ đang có. Thống đốc bang sẽ do chính quyền trung ương bổ nhiệm. Các bang sẽ không còn quân đội riêng nữa.

Hamilton cho rằng mô thức chính quyền hiện tại của Mỹ sẽ không phù hợp khi đất nước trở nên lớn hơn. Ông tin rằng nước Mỹ nên theo mô hình chính quyền của Anh quốc. Ông gọi đó là chính quyền tốt nhất trên thế giới.

Không một ai cắt ngang bài phát biểu dài của Hamilton. Các sử gia cho rằng đó là một sự kiện khác lạ. Vì các ý tưởng của Hamilton có tính cực đoan. Quan điểm công khai của ông ủng hộ mô hình chính quyền Anh lúc đó không được hoan nghênh. Các phát biểu của ông không được ai trong Hội nghị chấp nhận.

Thời tiết nóng bức và bài phát biểu dài làm cho các đại biểu quyết định nghỉ và tiếp tục làm việc vào một ngày khác.

Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.
Tháng 02/2009
(Nguồn:http://www.voanews.com/specialenglish/archive/2008-02/2008-02-13-voa1.cfm program #20 of THE MAKING OF A NATION)



[1] Trước khi có Hội nghị Lập Hiến, 13 bang của nước Mỹ, sau khi tuyên bố độc lập khỏi Anh, chỉ liên kết lỏng lẻo với nhau qua một văn bản có tên là các Điều khoản Liên bang (Articles of Confederation). (ND)

Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2009

Tranh luận về quyền lực cho tổng thống Mỹ




Ngày 01 tháng Sáu, Hội nghị tiếp tục tranh luận về vị trí điều hành cơ quan hành pháp[1].

Bản kế hoạch của Virginia đã gợi ra rất nhiều điểm gây tranh cãi. Bản kế hoạch cho rằng vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp phải do cơ quan lập pháp (quốc hội) lựa chọn. Trách nhiệm của vị trí này sẽ là thực thi các luật đã được quốc hội phê duyệt. Vị trí này sẽ đảm nhiệm trong một số năm xác định. Vị trí này sẽ chỉ được trả một khoản thù lao nhỏ.


Đó là những điểm làm cơ sở cho cuộc tranh luận. Phải mất vài tuần các đại biểu mới thảo ra được các chi tiết cho nhiệm vụ và quyền lực của vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp.

Dường như mọi đại biểu trong Hội nghị Philadelphia đều có ý kiến đối với chức vụ đứng đầu cơ quan hành pháp. Tất cả họ đều đã ít nhiều suy nghĩ về vấn đề này từ trước.

Gần như tất cả các đại biểu đều e sợ vị trí này sẽ được trao quá nhiều quyền lực. Hầu như không có ai muốn vị trí đứng đầu cơ quan điều hành nước Mỹ có quyền lực lớn như của một ông vua. Tuy nhiên, nhiều đại biểu tỏ ra tin vào ý tưởng vị trí đứng đầu cơ quan điều hành quốc gia được giao cho một người. Trong khi một số khác yêu cầu vị trí đó phải do ba người đảm nhiệm.

James Willson của Pennsylvania lập luận ủng hộ ý tưởng một người. Ông cho rằng vị trí này cần sức mạnh và khả năng để có thể đưa ra những quyết định nhanh. Những yêu cầu này chỉ được thực hiện tốt nhất khi để một người thực hiện.

Edmund Randolph của Virginia lại phản đối quyết liệt. Ông này cho rằng để một người điều hành sẽ là mầm mống cho chế độ độc đoán quân chủ.

John Dickinson của Delaware nói rằng ông ta không phản đối ý tưởng về chế độ quân chủ, về một chính quyền do một ông vua đứng đầu. Ông cho rằng đó chính là một trong các chính quyền tốt nhất trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước Mỹ, ông ta nói, vua đã bị loại ra khỏi cuộc bàn luận rồi.

Cuộc tranh luận về qui mô của vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp đã tốn nhiều thời gian. Cuối cùng, các đại biểu đã bỏ phiếu để quyết định. Đại biểu đến từ bảy bang bỏ phiếu thuận cho ý tưởng một người điều hành. Ba bang bỏ phiếu chống.
Cuộc tranh luận cũng đặt ra nhiều câu hỏi khác cho vấn đề này. Một trong số đó là về thời gian cho nhiệm kỳ. Người ở vị trí này nên giữ một nhiệm kỳ hay có thể được bầu lại.

Alexander Hamilton cho rằng cần có nhiệm kỳ dài. Ông lập luận rằng một tổng thống nếu chỉ giữ quyền trong một hoặc hai năm, nước Mỹ sẽ có rất nhiều cựu tổng thống và những người này, ông nói tiếp, sẽ đánh nhau vì quyền lực. Như thế sẽ tai hại cho hòa bình của đất nước.

Benjamin Franklin lại ủng hộ cho việc được bầu lại. Ông cho rằng nhân dân chính là người cầm quyền của một nước cộng hòa. Và tổng thống chỉ là người phục vụ nhân dân. Do đó, nếu người dân muốn bầu lại một tổng thống bao nhiều lần thì đó là quyền của người dân.

Các đại biểu cũng tranh luận về hai đề nghị. Một là cho một nhiệm kỳ 03 năm với khả năng được bầu lại. Đề nghị kia là chỉ một nhiệm kỳ kéo dài 07 năm. Kết quả bỏ phiếu rất sít sao. Đại biểu của năm bang ủng hộ nhiệm kỳ 07 năm. Bốn bang kia chống lại. Vấn đề này sau đó vẫn tiếp tục được bàn thảo suốt Hội nghị. Cuối cùng, trong văn kiện tổng kết, Hội nghị đã thống nhất cho nhiệm kỳ tổng thống là 04 năm và có khả năng được bầu lại.

Câu hỏi tiếp theo là làm cách nào để chọn được người đứng đầu cơ quan hành pháp. Đây là một vấn đề rất khó khăn. Hội nghị phải trải qua nhiều cuộc tranh luận, bỏ phiếu, rồi lại tranh luận, lại bỏ phiếu, lại tranh luận. James Willson đề nghị tổng thống sẽ do các đại diện đặc biệt của dân bầu ra gọi là các đại cử tri. Đại cử tri lại được chọn ra từ các quận, vùng đã được thiết kế cho phù hợp với mục đích này.

Nhiều đại biểu không đồng ý với ý kiến này, họ cho rằng hiểu biết của người dân chưa đủ để có lựa chọn tốt những đại cử tri. Những đại biểu này nói rằng kế hoạch đó rất khó thực hiện và rất tốn kém.

Có một đại biểu đưa ra ý tưởng tổng thống sẽ được thống đốc các bang bầu ra. Các thống đốc của bang lớn sẽ có nhiều phiếu bầu hơn các bang nhỏ. Không có ai ủng hộ ý tưởng này, nhất là các đại biểu đến từ các bang nhỏ. Ý tưởng này bị bác bỏ ngay.

Lại có một đề xuất là tổng thống do người dân trực tiếp bầu ra. Elbridge Gerry của Massachusetts bị sốc ngay vì ý tưởng này.

“Người dân không hiểu được những vấn đề như thế này,” Elbridge Gerry nói. “Một vài kẻ gian xảo sẽ dễ dàng đánh lừa người dân ngay. Cách tai hại nhất để chọn ra tổng thống là để người dân bỏ phiếu bầu.”

Thế là các đại biểu đồng ý để cơ quan lập pháp bổ nhiệm tổng thống. Nhưng sau đó họ lại bỏ phiếu chống lại phương pháp này và nói rằng để cho quốc hội các bang chọn ra các đại cử tri để bầu tổng thống. Nhưng sau đó, cách này cũng không được chấp nhận khi đưa ra bỏ phiếu. Cuộc tranh luận lại tiếp tục chuyển sang cách bầu trực tiếp thông qua người dân.

Hội nghị đã phải làm sáu mươi cuộc bỏ phiếu về vấn đề này. Và cuối cùng toàn Hội nghị đã đồng ý để vị trí đứng đầu cơ quan hành pháp (tổng thống) được bầu thông qua các đại cử tri do quốc hội của các bang chọn ra.

Vậy là, có người lên tiếng, chúng ta đã định xong cách chọn ra tổng thống. Nhưng chúng ta sẽ làm gì nếu tổng thống làm những điều có hại sau khi được nắm quyền? Chúng ta cần có cách để phế truất tổng thống.

Đúng thế, cả Hội nghị cùng tán thưởng. Cần phải có cách để đưa ra luận tội tổng thống, xét xử tổng thống và nếu ông ta được chứng minh là có tội, sẽ phế truất ông ta. Thống đốc Morris của Pennsylvania lên tiếng ủng hộ việc luận tội. Ông nói rằng một tổng thống có thể phản bội niềm tin của dân chúng khi bị một thế lực lớn nào đó tác động.

Các đại biểu đã phê chuẩn đề xuất phế truất tổng thống khi bị chứng minh đã phạm vào tội hối lộ, phản bội hoặc các tội nguy hiểm khác.

Vấn đề quan trọng cuối cùng liên quan tới vị trí tổng thống là quyền phủ quyết các quyết định của quốc hội.

Trước đó, không đại biểu nào muốn trao cho tổng thống toàn quyền bác bỏ các luật. Nhưng đến lúc này các đại biểu đã cảm thấy tổng thống nên có tiếng nói trong quá trình làm luật. Nếu không có tiếng nói đó, họ nói, vị thế của tổng thống sẽ rất ít ý nghĩa. Và quốc hội sẽ có quyền lực như một kẻ độc tài.

James Madison đề nghị một giải pháp: Tổng thống nên có quyền phủ quyết luật, nhưng quyền đó sẽ bị bác lại nếu đa phần thành viên quốc hội bỏ phiếu ủng hộ thêm một lần nữa.

Văn kiện tổng kết của Hội nghị đã liệt kê thêm các chi tiết cho vị trí người đứng đầu cơ quan hành pháp (tổng thống). Ví dụ, tổng thống phải là người được sinh ra tại Mỹ hoặc là công dân Mỹ vào lúc Hiến pháp được công nhận. Người làm tổng thống phải sinh sống tại Mỹ được ít nhất 14 năm. Tuổi của tổng thống phải ít nhất là 35.

Tổng thống được trả lương. Nhưng mức lương không được tăng hoặc giảm trong thời gian đương chức. Tổng thống sẽ là tổng chỉ huy quân đội. Và thường kỳ, tổng thống phải báo cáo cho quốc hội về tình trạng của toàn liên bang.

Văn kiện tổng kết Hội nghị cũng định ra những diễn từ cho lời tuyên thệ nhậm chức của tổng thống. Cứ bốn năm một lần, từ hơn hai trăm năm nay, mỗi tổng thống đều cất lên lời thề sau:

“Tôi xin long trọng tuyên thệ, tôi sẽ thực thi trách nhiệm của Tổng thống Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ một cách trung thực và tôi sẽ, bằng mọi khả năng của mình, gìn giữ, bảo vệ và che chở Hiến pháp của Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ.”

Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ theo sự cho phép của VOA.


Tháng 01/2009



[1] Hội nghị lập Hiến của Mỹ diễn ra từ ngày 25/05/1787 đến ngày 17/09/1787 tại Philadelphia. Hội nghị bàn nhiều vấn đề về xây dựng một cấu trúc mới cho chính quyền liên bang Mỹ sau 11 năm tuyên bố Độc lập khỏi sự đô hộ của Anh quốc. Bản dịch (chương trình này của VOA) chỉ đề cập một trong các vấn đề quan trọng. (ND)