Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011

Một chút lạc quan nhìn từ vụ Cù Huy Hà Vũ


Dòng máu anh hùng

Từ khi biết quan tâm đến các vấn đề xã hội tới giờ trong lòng tôi luôn cảm thấy hết sức khâm phục và ngưỡng mộ về khả năng phi thường trong việc giữ liêm sỉ của những người cộng sản thời 30, 40 thế kỷ trước trong những câu chuyện (tôi tin là thật) đã được nghe kể lại hay được đọc ở đâu đó. Ví như chuyện về Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa đã giao toàn bộ số vàng thu được trong tuần lễ vàng cho một mình ông Nguyễn Lương Bằng cất giữ, mà không hề bị xuy xuyển một phân. Chắc chắn những người cộng sản lúc đó đã mang trong mình dòng máu anh hùng của dân tộc Việt – một dân tộc đã nhiều lần tự phá bỏ nhà cửa để chỉ mong đổi lấy hai chữ “độc lập”. Sự anh hùng ở đây không chỉ là dám đương đầu với nhà tù, máy chém của bạo quyền mà còn là lòng khát khao những lý tưởng cao đẹp đến mức khó chịu, coi khinh những nằn nì, hối thúc của dục vọng.

Thế mà chỉ vài chục năm sau, nếu ai nhắc đến sự liêm sỉ của người cộng sản thì chả khác nào giễu cợt cay đắng hoặc có hơn là một nuối tiếc đầy xót xa. Nói theo kiểu dân dã đương thời thì những người cộng sản có quyền ngày nay họ có thể “ăn” mọi thứ của dân từ thóc giống, bờ xôi ruộng mật, thuốc trừ sâu, nhà máy điện, tàu biển, đường xá, cầu cống, trường học, bệnh viện, mộ liệt sỹ, đồ cứu tế cho đến cả rừng núi, biển đảo, biên giới, điểm yếu chiến lược quốc gia và danh dự dân tộc. Thế mà có rất ít người cộng sản thời 30, 40 lên tiếng chống lại tình trạng vô liêm sỉ khủng khiếp đó. Có thể tuổi già đã ảnh hưởng đến chí khí? Dòng máu anh hùng của người cộng sản thời xưa có thật không? Nếu có sao không truyền lại được cho các thế hệ sau? Quá trình di truyền đã bị biến đổi, nhưng chả nhẽ tất cả các gien anh hùng đó đều cùng bị biến dị hết sao? Một sự trùng hợp tự nhiên kỳ lạ? Nhưng, đúng như tôi nghi ngờ, hiện tượng Cù Huy Hà Vũ đã chứng minh dòng máu anh hùng của dân tộc Việt trong tim những người cộng sản thời kỳ 30, 40 vẫn được bảo tồn và truyền được lại cho thế hệ kế tiếp.
Thách thức

Cách thể hiện của Cù Huy Hà Vũ có thể làm nhiều người không thích nhưng nếu nhìn ra thế giới chúng ta sẽ thấy người ta còn phản đối kẻ cầm quyền bằng cả cách kéo một con chó đeo mặt nạ là gương mặt của tổng thống chạy nhông nhông trên đường hay “dí” hình khuôn mặt của tổng thống vào chỗ kín của quí bà. Có thể văn hóa phương Đông chưa quen với những cách phản đối đó (cũng như người Việt đã từng thiếu thiện cảm với cả “áo cài khuy bấm”). Nhưng trong một xã hội đã gọi người dân là “công dân” thì việc người dân bày tỏ công khai sự bất bình đối với chính sách của nhà nước, với người cầm quyền (kẻ làm thuê cho dân) phải được coi là chuyện bình thường, và rất quí nếu vẫn còn ít người bày tỏ. Ý nghĩa hơn nữa là những điều Cù Huy Hà Vũ lên tiếng về các vấn đề xã hội đều thể hiện một tinh thần tôn trọng pháp luật, yêu mến công lý, quyết liệt với cái ác ở mọi cấp độ và tình yêu Tổ quốc nóng bỏng.
Thật là không khôn ngoan khi thách thức bạo quyền với hai bàn tay trắng. Nhưng về bản chất, sự vạch trần các bất công hay cổ động cho các giá trị tiến bộ trong một chế độ độc tài không thể nào tránh được sự suy diễn, có tính bản chất, của những người cầm quyền là “thách thức”, nếu không lảng tránh truy đến tận gốc của bất công và chỉ rõ những điều trọng yếu cần thay đổi để có tiến bộ. Vì nếu người cầm quyền không suy diễn như thế thì họ đã không còn là độc tài nữa và nếu chúng ta không nhận thức được điều đó thì có nghĩa chúng ta đã không hiểu gì về độc tài. Nêu bật gốc rễ của bất công và lật ra những nền tảng cần thay đổi của chế độ chính trị để cho toàn dân biết chính là cái khác giữa những kẻ cầm quyền độc tài, những người còn đắn đo và những người thúc đẩy tiến bộ thực sự. Có nhà độc tài nào lại nói là không muốn mang lại dân chủ, công bằng, văn minh, giàu mạnh cho dân chúng? Có kẻ cầm quyền độc đoán nào mà lại không lớn tiếng kêu gọi chống tham nhũng, bất công, đói nghèo?
Chấp nhận

Nhưng đúng như qui luật muôn đời. Ở đâu mà sự dối trá lên ngôi thì kẻ nói thẳng sẽ phải là tội đồ. Do đó việc Cù Huy Hà Vũ bị truy bức (bôi nhọ, tống vào ngục) không phải là việc kỳ lạ hay khó hiểu. Vấn đề chỉ là ở việc điều đó đã đến sớm hay muộn và mức độ, hình thức của sự truy bức sẽ như thế nào mà thôi. Truy bức người khác ý luôn là bản chất của mọi chế độ độc tài, bất kể người đó là ân nhân, công thần hay thư ký riêng của lãnh tụ. Dù từ tốn hay ý nhị nhưng nếu chạm đến những vấn đề có tính sống còn của quyền lực độc đoán thì khó có thể tránh được sự truy bức của kẻ cầm quyền. Khúc chiết, lịch lãm như Nguyễn Mạnh Tường, mạnh mẽ, cương quyết như Hoàng Minh Chính, chân tình, bộc trực như Nguyễn Hộ hay cẩn trọng, tha thiết như Trần Độ đều không tránh được truy bức, thù ghét cho đến chết (dĩ nhiên chỉ của kẻ cầm quyền độc đoán thôi). Đó là những sự thật khắc nghiệt, xót xa mà những người bị áp bức, muốn tiến bộ cần phải nhận thức rõ. Nói cách khác, muốn có tiến bộ xã hội, con người không có cách nào khác là phải dám đối mặt với cái ác, phải tự dấn thân và trả giá. Nếu tôi không trả giá thì anh sẽ phải trả giá hoặc con cháu chúng ta sẽ phải trả hoặc tất cả sẽ mãi cùng sống kiếp nô lệ-tăm tối về tinh thần, tủi nhục về nhân phẩm.
Để tiến tới một đồng thuận xã hội trong việc chấp nhận cùng trả giá – điều kiện đủ-cho một tiến bộ xã hội bao giờ cũng cần phải có những trả giá (hy sinh) có tính tự phát, đơn lẻ và cô đơn. Xã hội, và thậm chí ngay cả những cá nhân dám trả giá, thường cũng chưa nhìn thấy hết tầm quan trọng của hành động dám trả giá (dường như vô vọng) đó. Nhưng kẻ cầm quyền độc đoán thì không. Đó chính là lý do tại sao những kẻ cầm quyền độc đoán sẵn sàng tìm mọi cách để bôi xấu, cô lập, vùi dập những cá nhân vô cùng bé nhỏ (so với quyền lực khổng lồ) nhưng dám đương đầu vì những khao khát tiến bộ đang thôi thúc trong nội tâm của họ. Nhưng, một khi truy bức của bạo quyền khổng lồ vẫn không lung lạc được ý chí của cá nhân bé nhỏ thì sức mạnh không còn hoàn toàn thuộc về kẻ nắm quyền nữa. Xác định chấp nhận mọi gian khổ của một cá nhân không chỉ giúp cho niềm tin của xã hội vào tiến bộ thêm vững vàng, sự tin tưởng của xã hội trong việc chống cái ác thêm mạnh mẽ mà còn có tác dụng lay động chính tâm can của kẻ truy bức. Một lý tưởng đúng và cao đẹp càng có sức lan tỏa và chỉ đủ sức thuyết phục toàn xã hội nếu lý tưởng đó vượt được qua trấn áp của bạo quyền. Chính vì vậy, một khi có thêm những người đang chịu sự truy bức và trong quần chúng có thêm người cùng ý thức được rằng chịu đựng gian khó, hy sinh cho tiến bộ là tất yếu và đầy giá trị thì có nghĩa là khoảng cách đến với tiến bộ đã được rút ngắn thêm một bước.
Lạc quan

Chỉ hơn một tháng, vụ án Cù Huy Hà Vũ đã hoàn tất hồ sơ (điều tra, cáo trạng) để chuyển sang “tòa án”. Các luật sư được tiếp xúc nhiều lần với bị cáo (sau khi có kết luận điều tra) và các trao đổi dường như không bị hạn chế. Đó là một tiến bộ rất lớn so với những vụ án chính trị chỉ cách đây không lâu. Có thể trong vụ án này có nhiều điểm ngoại lệ và tiến bộ đó chưa thành phổ biến nhưng đó là một tín hiệu cho thấy những tiến bộ của nhân loại vẫn có thể ngấm được vào những cấu trúc xã hội ù lì nhất, bảo thủ nhất. Điều quan trọng hơn nữa là lần đầu tiên những ủng hộ, chia sẻ có âm vang nhất dành cho kẻ bị cáo buộc là “phản động”, “chống đối nhà nước” – vẫn kiên cường sau song sắt nhà tù- đã đến từ nhiều người rất gần về địa lý, đa dạng về tuổi tác, nghề nghiệp và địa vị xã hội.
Có lẽ nhiều người đã nhận thấy cái giá mà Cù Huy Hà Vũ, gia đình và người thân của ông phải chịu đựng đang góp vào cái giá chung mà trào lưu tiến bộ của Việt Nam bắt buộc phải trả để Tổ quốc có thể thoát được một hiểm họa Bắc thuộc mới đang đến rất gần và toàn xã hội mới có thể được hưởng những điều thật về dân chủ, công bằng, văn minh. Vì suy cho cùng chả có con người nào có lý trí và nhân phẩm lại không ủng hộ việc bảo vệ Tổ quốc và những tiến bộ mà nhiều xã hội khác đã được hưởng từ rất lâu.
Dĩ nhiên khi một đảng chính trị (duy nhất) của một đất nước vẫn khăng khăng tuyên bố tiếp tục đưa đất nước đi theo một chủ nghĩa đã bị nhân loại tiến bộ lên án là tội ác, thì lạc quan là một sai lầm ngờ nghệch. Nhưng nếu xác định mọi tiến bộ xã hội chỉ thực sự và bền vững khi là kết quả của ý thức tự đòi hỏi, tự đấu tranh của người dân, chứ không phải từ sự ban ơn, từ sự thay đổi, “đổi mới” của kẻ cầm quyền, thì nhìn vào vụ Cù Huy Hà Vũ, chúng ta có quyền lạc quan. Vui và tin vào những cải thiện nhỏ nhưng cơ bản của dân trí, dân khí trong một ý thức rõ ràng về những khó khăn, thách thức to lớn trong hiện tại và cả tương lai. Đó có thể tạm gọi thuộc về chủ nghĩa lạc quan không tếu hay chủ nghĩa lạc quan cẩn trọng (cautious optimism, optimisme prudent).
24/01/2011
Phạm Hồng Sơn